900/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1014
- 31
Tại đơn xin ly hôn đề ngày 02/02/2006 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Huỳnh Hữu Chiến (Măng) trình bày: Anh và chị Diễm chung sống như vợ chồng từ năm 1986, không có đăng ký kết hôn. Anh, chị có 3 con chung là Huỳnh Ngọc Thùy sinh năm 1988; Huỳnh Ngọc Thoa sinh năm 1989 và Huỳnh Ngọc Thương sinh năm 1999. Hai anh, chị tạo lập được 3.996m2 đất tại xã PT, huyện NT, hiện do chị Diễm đứng tên, một căn nhà làm nhờ trên đất của chị Huê (là chị gái của anh), một xe ô tô 16 chỗ ngồi; 15.000.000 đồng tiền bán xe Honda Drem và một số tài sản nhỏ khác.
798/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1168
- 31
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Theo đơn khởi kiện ngày 07/3/2008 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Trần Thị Thủy trình bày: vào ngày 01/5/2006 bà Nguyên có vay của bà số tiền 300.000.000 đồng, lãi suất là 1,5% một tháng. Bà Nguyên có làm biên nhận nợ và có thế chấp 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD716199 và AD967680 mang tên Nguyễn Quốc Việt. Ngày 18/12/2006 do chưa trả nợ nên bà Nguyên viết một giấy cam kết hẹn ngày 17/01/2007 sẽ trả hết nợ và lãi cho bà. Nhưng đến nay bà Nguyên không thực hiện cam kết trả nợ nên bà yêu cầu bà Nguyên cùng ông Việt liên đới trả số tiền 300.000.000đ vốn và tiền lãi tính theo quy định của pháp luật là 72.967.000đ.
32/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1309
- 27
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ngày 20/11/2003, cụ Tiềm lập di chúc (có công chứng chứng thực) cho ông BĐ_Tín lô đất thứ nhất. Ngày 03/12/2003, cụ Tiềm chết. Bà NĐ_Trinh và bà NĐ_Duyên khởi kiện cho rằng trong lô đất thứ nhất thì tài sản chung của cụ Phúc, cụ Tiềm chỉ là 400m2, diện tích đất còn lại là do các ông, bà cùng cụ Tiềm khai phá, lấn rộng ra xung quanh, vì vậy, việc cụ Tiềm lập di chúc cho ông BĐ_Tín lô đất này là không đúng; hơn nữa khi lập di chúc cụ Tiềm bị điếc và lú lẫn, nên đi chúc này không hợp pháp. Đối với lô đất thứ 2, ông BĐ_Tín tự ý kê khai đứng tên là không đúng. Do đó, đề nghị Tòa án chia thừa kế cả hai lô đất trên theo quy định của pháp luật; đối với diện tích đất cụ Tiềm, ông BĐ_Tín đã chuyển nhượng cho ông LQ_Bùi Văn Khang thì yêu cầu ông LQ_Bùi Văn Khang trả lại, ông BĐ_Tín có trách nhiệm trả lại tiền cho ông LQ_Khang.
445/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 358
- 12
Theo đơn khởi kiện đề ngày 08/7/2006 và trong quá trình tố tụng, các nguyên đơn trình bày: - Ông Nguyễn Trung Thu, chết năm 1970 và vợ là bà Nguyễn Thị Nhổ, chết ngày 30/9/2003 đều không để lại di chúc, có 3 con là anh NĐ_Nguyễn Trung Thành, chị NĐ_Nguyễn Thị Viên và anh BĐ_Nguyễn Trung Hải. Tài sản cha mẹ để lại gồm có 02 căn nhà tường và 1 nhà dưới trên 432m2 đất thổ cư tại thửa 79, tờ bản đồ số 10 và 4.251m2 đất lúa đứng tên bà Nhổ. Sau khi cha mẹ chết anh BĐ_Hải quản lý. Anh NĐ_Thành yêu cầu chia toàn bộ tài sản nêu trên theo pháp luật; còn chị NĐ_Viên chỉ yêu cầu chia nhà và đất thổ cư.
431/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 320
- 9
Ngày 5/7/2006, tại đơn xin ly hôn, nguyên đơn là anh Hoàng Văn Linh trình bày: anh và chị Nông Thị Hồng Thắm kết hôn ngày 16/12/1985 do tự nguyện có đăng ký kết hôn hợp pháp tại Ủy ban nhân dân phường HVT, thành phố TN, tỉnh TN. Trong quá chung sống từ năm 1987 đến năm 2004 thường xuyên xảy ra mâu thuẫn vợ chồng do tính cách không hợp. Từ năm 2004 đến nay hai vợ chồng đã sống ly thân nhau, không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay anh Linh xin được ly hôn chị Thắm.