11/2015/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động
- 2608
- 125
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Vào tháng 01/2011 ông NĐ_Quang trúng tuyển vào làm giảng viên cơ hữu tại BĐ_Trường Đại học M TP.HCM (sau đây gọi tắt là BĐ_ĐH M), hai bên ký HĐLĐ số 257/HĐLĐ-ĐHM ngày 22/12/2010 thời hạn 1 năm từ 01/01/2011 đến 31/12/2011, sau đó ký thêm HĐLĐ số 22/HĐLĐ-ĐHM ngày 03/01/2012 thời hạn 1 năm, từ 01/01/2012 đến 31/12/2012, công việc là giảng viên khoa xây dựng và điện, mức lương bao gồm lương cơ bản là 2.490.000 đồng, hệ số 3.0, phụ cấp giáo dục 25% lương cơ bản, các khoản bảo hiểm và thuế, thu nhập tăng thêm ứng trước và các chế độ phúc lợi, khen thưởng theo quy định của Nhà trường. Sau khi hợp đồng hết hạn ông NĐ_Quang vẫn làm việc bình thường như hoàn tất bộ đề thi vào tháng 05/2013, hoàn thiện đề tài khoa học cấp trường vào tháng 05/2013, viết báo đăng tạp chí trường vào ngày 08/8/2013, bảo quản các thiết bị dạy học do trường giao từ năm 2011 đến nay.
1063/2015/LĐ–ST Sơ thẩm Lao động
- 3716
- 177
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Từ ngày 01/01/2005 Nguyên đơn và BĐ_Công ty PC Hồng Hà Limited (Bị đơn) ký Hợp đồng lao động số: VHR1/37/2005, loại hợp đồng là không xác định thời hạn. Đến ngày 16/12/2009 ông được thuyên chuyển làm trưởng phòng cao cấp tại công ty. Trong năm 2010, tại Công ty có mâu thuẫn trong việc xếp loại hàng năm của Tổng giám đốc, dẫn đến sự bất an của nhân viên, với tư cách là Trưởng phòng cao cấp và đã từng là Chủ tịch công đoàn nên Nguyên đơn đã tích cực cùng công đoàn phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân viên nhưng không được giải quyết. Bản thân Nguyên đơn lại bị Công ty ra quyết định cắt chức, hạ bậc lương nên Nguyên đơn đã khởi kiện ra Tòa án nhân dân Quận X và hiện đang chờ Tòa án Thành phố HCM xét xử phúc thẩm.
09/2015/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động
- 4345
- 188
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải, nguyên đơn là ông NĐ_Lê Hồng Mừng trình bày: Ông NĐ_Mừng và BĐ_Công ty Cổ phần Bảo hiểm ABC (sau đây gọi tắt là BĐ_Công ty) có ký HĐLĐ không xác định thời hạn số 707/10310/HĐLĐ-ABC ngày 28/02/2010. Sau đó, ông NĐ_Mừng tiếp tục ký HĐLĐ không xác định thời hạn số 0195-19514/HĐLĐ-ABC ngày 24/01/2014, với chức vụ Trưởng phòng điều tra, mức lương là 15.850.000 đồng/tháng.
3302/2009/HNST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 639
- 11
Theo đơn xin ly hôn đề ngày 20/3/2009 và lời khai của bà NĐ_Phạm Thị Linh thì nội dung sự việc như sau: Bà NĐ_Phạm Thị Linh và ông BĐ_Nguyen, Phung Vinh kết hôn hợp pháp, đăng ký tại Sở tư pháp thành phố HCM và được ghi vào sổ đăng ký kết hôn số 4025, quyển số 15 ngày 17/12/2007 của Ủy ban nhân dân thành phố HCM. Sau khi kết hôn, ông BĐ_Nguyen, Phung Vinh ở lại Việt Nam khoảng 01 tháng, trong khoảng thời gian chung sống này giữa vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn, trầm trọng do tính tình không hợp nhau và ông BĐ_Nguyen, Phung Vinh không được bình thường trong quan hệ vợ chồng.
3294/2009/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1184
- 20
NHẬN THẤY: Theo đơn khởi kiện đề ngày 11/3/2005 (Bút lục số 35; 36) của ông Trần Trạch Quyền trình bày thì nội dung vụ án như sau: Ông là con nuôi của bà Huỳnh Bửu Trân. Bà Trân có chồng là ông Đặng Hạnh. Bà Trân chết năm 2000; ông Hạnh xuất cảnh sang năm 1979 và chết tại Malaysia ngày 02/5/1980. Ông Hạnh có một người con riêng là ông Đặng Giọc Hy, hiện đang cư trú tại Mỹ. Tầng trệt của căn nhà số 114/3B NNT, phường 13, quận X là tài sản của bà Trân, ông Hạnh sang lại của ông Tạ Khai Xương, bà Ngô Thị Đoàn với giá tiền 350.000 đồng (ba trăm năm mươi ngàn đồng) vào năm 1969. Hàng tháng đóng tiền thuê đất 2.700 đồng (hai ngàn bảy trăm đồng) đến năm 1985 thì ông Xương không thu tiền đất nữa nên bà Trân tiếp tục đóng thuế đất cho Nhà Nước. Trong quá trình sử dụng nhà, ông Hạnh, bà Trân sửa chữa nhà, xây hồ chứa nước, làm nhà vệ sinh và đúc gác giả, lót gạch nền nhà.