cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

01/2014/HC- ST Sơ thẩm Hành chính

  • 757
  • 9

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư

23-01-2014
TAND cấp huyện

Tại đơn khởi kiện, tại các bản tự khai, biên bản đối thoại, người khởi kiện bà NĐ_Lê Thị Toàn có bà Lê Thị Bảy là người đại diện hợp pháp trình bày: Bà NĐ_Toàn có các anh chị em gồm: Lê Văn Danh, sinh năm: 1958; Lê Thị Yến, sinh năm: 1956; Lê Thị Bảy, sinh năm: 1966. Là con ông Lê Văn Mới (1925-1977) và bà Huỳnh Thị Thức ( 1934-1994). Khi cha mẹ còn sống có tạo dựng một căn nhà ở và đất ở có diện tích là 819,52 m2. Diện tích đất ở này có từ năm 1955 do cha mẹ bà để lại và được anh ruột là Lê Văn Danh sinh năm 1958, hiện thường trú tại 406/17 Tổ 19, Khu phố 2, Phường ALĐ, Quận X, Thành phố HCM đã đăng ký đất ở ngày 06/8/1999 với toàn bộ diện tích đất ở là 819,52 m2 theo Quyết định 3376/QĐ-UBND ngày 11/6/1999 của Uỷ ban nhân dân Thành phố HCM. Trong diện tích này bà NĐ_Toàn có sử dụng 107,57m2 là một phần đất do cha mẹ để lại.


43/2013/HC- ST Sơ thẩm Hành chính

  • 521
  • 9

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

23-12-2013
TAND cấp huyện

Theo Đơn khởi kiện ngày 22/5/2012, Đơn khởi kiện bổ sung ngày 05/6/2012, bản tự khai, biên bản đối thoại và tại phiên Tòa, người khởi kiện – bà NĐ_Huỳnh Thị Phan yêu cầu Tòa án nhân dân Quận X hủy các quyết định sau: Quyết định số 10673/QĐ-UBND ngày 22/8/2011 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với căn nhà số 763K Xa lộ Hà Nội, Khu phố 2, phường TĐ, Quận X và phần diện tích đất 163,54m2 thuộc thửa 120, một phần thửa 121, Đường tờ bản đồ số 58 phường TĐ, Quận X; Quyết định số 7851/QĐ – UBND ngày 20/6/2011 của BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X về sửa đổi bổ sung tại Phương án số 197/PA – HĐBT ngày 18/10/2010, Quyết định 5971/QĐ-UBND-TTr ngày 02/5/2012 của BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X về giải quyết đơn khiếu nại của bà NĐ_Huỳnh Thị Phan;


161/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 582
  • 15

Tranh chấp quyền sử dụng đất

25-12-2008
TAND cấp tỉnh

Bà NĐ_Chính tranh chấp với ông BĐ_Đỗ Tường Hà, bà BĐ_Đinh Thị Thiên quyền sử dụng 259,7m2 đất thuộc thửa 16, tờ bản đồ số 41, thị trấn LH, huyện LĐ. Nguồn gốc đất, theo bà NĐ_Chính, là do Bà khai phá từ năm 1975 để cất nhà ở (nền xi măng, vách lá, mái tole), diện tích đất đến nay không thay đổi. Bà ở cùng 03 người con cho đến năm 2006 thì bị bão số 9 làm sập nhà. Bà làm lại nhà thì ông BĐ_Hà ngăn cản với lý do đất này ông BĐ_Hà đã được cấp sổ đỏ. Quá trình sử dụng đất này, theo bà NĐ_Chính thì Bà đã thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước đầy đủ và có đi đăng ký quyền sử dụng đất với chính quyền nhưng không được cấp giấy đỏ với lý do đất chưa có biến động. Nay bà NĐ_Chính yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất trên cho bà NĐ_Chính.


147/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 600
  • 9

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

21-11-2008
TAND cấp tỉnh

Tại đơn khởi kiện ngày 28/01/2008, bà BĐ_Hoàng Bích Loan khởi kiện bà NĐ_Nguyễn Thị Kiều về việc yêu cầu bà NĐ_Kiều hoàn trả cho bà BĐ_Loan số tiền vay 5 lần từ ngày 28/6/2006 đến ngày 30/4/2007, tổng cộng là 219.370.000 đồng nhưng bà NĐ_Kiều chưa giao trả đủ. Tuy nhiên, bà NĐ_Kiều chỉ công nhận, vào khoảng tháng 4 năm 2006, bà có vay của bà BĐ_Loan 80.000.000 đồng và có thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà NĐ_Kiều do UBND huyện Long Đất cấp ngày 25/2/2004, đến nay phía bà NĐ_Kiều đã trả nợ gốc và lãi cho bà BĐ_Loan tổng cộng là 153.000.000 đồng.


21/2008/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2457
  • 91

Ly hôn và yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng

23-06-2008
TAND cấp tỉnh

Theo ông NĐ_Bùi Văn Vinh trình bày: ông và bà BĐ_Nguyễn Thị Mộng kết hôn và chung sống từ năm 1985, ông bà có hai người con chung và có tài sản sản chung là căn nhà 8ố: 542 đường số 25 (NTT), khu phố CXM, thị trấn KL, huyện KL, KG. về căn nhà tuy là tài sản chung nhưng công sức đóng góp tạo dựng phần của ông là chính, vì ông làm trong công ty xi măng Hà Tiên II đã hơn 25 năm, được công ty bán hóa giá và tiền bạc ông đóng góp nhiều hơn vợ để mua căn nhà. Nay ông yêu cầu chia trị giá căn nhà làm ba phần ông hưởng hai phần và bà BĐ_Mộng một phần. Trị giá căn nhà thỏa thuận là 233.910.245đ, ngoài ra trong quá trình chung sống vợ ông có nợ bà LQ_Đình số tiền 168.672.500đ và 1.950 USD, ông xác nhận vợ ông có nợ bà LQ_Đình và ông dự định hỗ trợ tiếp với vợ ông trả nợ cho bà LQ_Đình nhưng bà LQ_Đình lại yêu cầu buộc vợ chồng ông trả nợ quá khắt khe (không thương lượng thỏa thuận được), nên ông yêu cầu chia tài sản chung để vợ ông có phần tiền riêng trả nợ cho bà LQ_Đình.