466/2013/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 471
- 17
Tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Trong đơn khởi kiện nộp Tòa án ngày 09 tháng 11 năm 2009, các biên bản hòa giải tại Tòa, biên bản về việc không tiến hành hòa giải được ngày 16 tháng 8 năm 2013 và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn là NĐ_Phan Thị Hòa trình bày: Năm 2003 bà LQ_Hồ Thị Nguyệt có dẫn bà BĐ_Phùng Thị Thảo đến nhà bà vay của bà 30.000.000 đồng với thời hạn là hai tháng và có thế chấp cho bà giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu. Sau đó bà BĐ_Thảo nói do cần làm giấy tờ nên đã mượn lại giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu và sau đó là không đưa trả lại cho bà. Sau đó thì bà BĐ_Thảo mượn tiếp của bà nhiều lần tiền thỏa thuận tổng cộng là 90.000.000 đồng. Do không có khả năng trả nợ nên bà BĐ_Thảo có dẫn bà vào khu đất chỉ bán cho bà miếng đất chiều ngang 5 mét x chiều dài 30 mét giá là 120.000.000 đồng. Ba đồng ý mua và hai bên đã cùng với con của bà BĐ_Thảo là anh LQ_Đỗ Minh Quân ký kết hợp đồng chuyển nhượng vào ngày 19/5/2004 có sự chứng kiến của anh Nguyễn Vĩnh Thịnh. Sau đó bà đã giao nhiều lần tiền cho bà BĐ_Thảo để đủ tổng cộng tiền mua đất là 120.000.000 đồng.
1639/2015/LĐ-PT Phúc thẩm Lao động
- 6723
- 363
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Nguyên đơn đã cung cấp đủ tài liệu, giấy tờ cần thiết để xin giấy phép lao động nhưng Công ty đã không tiến hành xin giấy phép lao động cho ông là vi phạm pháp luật Việt Nam. Nay, ông yêu cầu như sau: - Tuyên bố việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của Công ty với ông theo thông báo miệng ngày 10 tháng 6 năm 2014 là trái pháp luật; - Hủy Thông báo chấm dứt làm việc ngày 9 tháng 7 năm 2014; - Buộc Công ty phải: nhận ông trở lại làm việc với vị trí và mức lương đã trả trước đây; trả tiền lương trong những ngày không được làm việc; xin lỗi bằng văn bản do đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
07/2007/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1358
- 22
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Theo lời khai của các đương sự tại cấp sơ thẩm thì lúc sinh thời, Ông Du và bà BĐ_Sinh có các tài sản chung gồm: Căn nhà cấp 4A5 diện tích 78,96m2, nhà tạm 72,96m2 nằm trên thửa đất số 60, tờ bản đồ số 40, diện tích 20.939m2 trỏng đó co 300m2 đất thổ cư, Thửa đất số 101, tờ bản đồ số 40, diện tích 9.051m2 cùng tòạ lạc tại Ấp Trảng Lớn, HD, TT, tỉnh BR-VT. Đất đã được cấp giấy chứng nhận QSD đất năm 1995 đứng tên ông Trần Văn Du. Năm 2001 bà BĐ_Sinh làm thủ tục sang tên toàn bộ diện tích đất trên từ ông Du sang tên bà BĐ_Sinh. Năm 2004 đã làm thủ tục chuyển QSD thửa số 101 sang tên ông LQ_Trần Hữu Đinh.
49/2013/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 275
- 6
Theo đơn khởi kiện nộp ngày 27/10/2009 và các lời khai của nguyên đơn ông NĐ_Phạm Văn Mặn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà LQ_Nguyễn Thị Minh đo ông Phạm Hoàn Hải đại diện trình bày: phần đất điện tích 748m2 thuộc phần đất thửa 168 tờ bản đồ 07 xã HP huyện NB ông NĐ_Phạm Văn Mặn khai phá từ năm 1975 đến năm 1978, có cho anh ruột là ông Phạm Văn Ngọc ở nhờ để nuôi vịt. Đến năm 1995 thì ông Ngọc chết, con Ông Ngọc là BĐ_Phạm Văn Kha đã tự đăng ký sử dụng phần đất trên và được UBND huyện NB cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phần đất trên. Nay ông yêu cầu UBND huyện NB thu hồi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho BĐ_ Kha và BĐ_ Kha phải trao trả lại cho ông phần đất trên.
02/2013/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1779
- 32
Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn ông NĐ_Lê Minh Nhi và bà NĐ_Nguyễn Thị Hồng Nhung đều trình bày: Diện tích đất tranh chấp 25,8m2 (ngang 04m, dài 6,45m) trong thửa 35, tờ bản đồ số 04, toạ lạc tại khóm 3, phường 2, thị xã ST (nay là thành phố ST), tỉnh ST. Nguồn gốc đất tranh chấp trước ngày 30/04/1975 chế độ Ngụy quyền Sài Gòn quản lý xây nhà cho thương phế binh ở. Sau 30/04/1975 Nhà nước quản lý. Đến năm 1980 ông bà được UBND phường 2 cho mượn ở căn nhà cấp 4 (diện tích xây dựng 40m2) và sử dụng diện tích đất phía sau 104m2. Sau đó LQ_UBND thị xã ST ra quyết định số 42/QĐ.UBTX.85 ngày 25 tháng 03 năm 1985 tạm cấp căn nhà nêu trên cho ông bà (nhà ở số 57) và ông bà sử dụng toàn bộ diện tích đất phía sau.