[]/2007/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 1086
- 32
Tranh chấp hợp đồng dịch vụ quảng cáo
Trong đơn khởi kiện ngày 12 tháng 04 năm 2005 và các lời trình bày tiếp theo của nguyên đơn là NĐ_Công ty TNHH Quảng cáo Đào Phúc có ông Trần Anh Tú - đại diện thì giữa nguyên đơn và bị đơn là BĐ_Công ty TNHH Thực phẩm và nước giải khát Xuân Mai có giao kết kinh doanh thương mại về việc tổ chức quảng cáo chương trình “Lý Đức và Vodik hướng về giấc mơ huy chương vàng” nhằm mục đích giới thiệu sản phẩm mới Vodik tới người tiêu dùng tại 10 tỉnh, thành phía Bắc, hai bên ký Hợp đồng vào ngày 19/4/2004, với tổng giá trị là 568.000.000 đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng do có phát sinh 2 đợt và cộng với Thuế VAT thì bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn là 1.078.046.000 đồng, tuy nhiên, bị đơn chỉ thanh toán cho nguyên đơn là 612.960.000 đồng, hiện còn nợ chưa thanh toán là 572.891.330 đồng.
480/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2170
- 137
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Tổng diện tích đất vợ chồng bà nhận chuyển nhượng của bà Trần Thị Vân là 10739m2. Lần chuyển nhượng thứ nhất 4.600m2, đất đã có sổ đỏ, phần đất này không tranh chấp. Lần nhận chuyển nhượng thứ 2 vào năm 2003, diện tích 6.139m2 với giá 60.000.000 đồng. Thời điểm sang nhượng đất bà Vân chưa có giấy chứng nhận QSD đất hai bên chỉ lập giấy tay nhưng đã giao tiền đầy đủ. Năm 2010, sau khi bà Vân được cấp giấy chứng nhận QSD đất, bà và bà Vân đã làm thủ tục sang tên giấy chứng nhận QSD đất, bà được cấp 2 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng ngày 20/9/2010 (giấy thứ nhất thửa số 126, tờ bản đồ số 101, diện tích 3862m2, giấy thứ hai thửa số 370, tờ bản đồ số 10, diện tích 2277m2). Nhưng từ khi nhận chuyển nhượng đất của bà Vân đến nay, vợ chồng bà chưa được sử dụng đất do bị vợ chồng chị BĐ_Liên, anh LQ_Lân (con bà Vân) vẫn sử dụng. Bà đã yêu cầu chị BĐ_Liên, anh LQ_Lân di dời nhà về phần đất 400m2 bà Vân chia cho để giao trả lại đất cho bà nhưng chị BĐ_Liên, anh LQ_Lân không đồng ý. Bà yêu cầu chị BĐ_Liên, anh LQ_Lân trả lại cho bà 6.139m2 tại tổ 11, ấp Hội Tân, xã TH, theo giấy chứng nhận QSD đất bà được cấp năm 2010.
452/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 491
- 13
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Tại đơn khởi kiện đề ngày 28/6/2010 và trong quá trình tố tụng, đồng nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Văn Thắng, bà NĐ_Đinh Thị Lan trình bày: Ông, bà khởi kiện yêu cầu chị BĐ_Đàm Thị Viên trả lại 11.742,4m2 đất và nhà ở tại thửa đất số 41 và 51 tờ bản đồ số 01 xã TĐ, thị xã ĐH, tỉnh QB. Nguồn gốc của phần đất này trước đây là đất rừng tái sinh thuộc quyền quản lý của UBND xã Bắc Lý; năm 1998 khi thành lập xã TĐ thì thuộc quyền quản lý của UBND xã TĐ; từ năm 1994 ông, bà cùng một số gia đình khác đã đăng ký xin UBND phường Bắc Lý để canh tác trên diện tích đất này, năm 2004 UBND thị xã ĐH (nay là thành phố ĐH) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với 02 thửa đất nêu trên cho ông, bà. Năm 1998, vợ chồng ông, bà khởi công xây dựng ngôi nhà đang tranh chấp hiện nay, quá trình làm nhà được làm nhiều lần, nhiều công đoạn và nhiều đoàn thợ khác nhau. Chị BĐ_Viên là vợ của anh Nguyễn Văn Nghị (con của ông, bà) nhưng không có đăng ký kết hôn, hiện chị BĐ_Viên và anh Nghị đã có 01 cháu gái là Nguyễn Thị Thảo (sinh năm 1997). Năm 2001 anh Nghị chết, sau đó vợ chồng ông tiếp tục hoàn thiện ngôi nhà trên; đến năm 2003 ông, bà bán nhà cũ và ra ở với chị BĐ_Viên và cháu Thảo trong ngôi nhà nêu trên. Năm 2006, chị BĐ_Viên đi Miền Nam làm ăn, năm 2008 mới quay về. Do chị BĐ_Viên đòi đuổi ông, bà ra khỏi ngôi nhà nêu trên, nên ông, bà khởi kiện đề nghị công nhận quyền sở hữu nhà và đất nêu trên cho ông, bà.
40/2014/GĐT-DS Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1073
- 25
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Căn nhà số 319 NTL, phường 13, quận BT diện tích 369,86m2 nằm trong khuôn viên 1356m2 đất do cụ Âu Ngọc và cụ Phù Cải (cha, mẹ của bà) mua năm 1967. Ngày 04/01/1993 cụ Ngọc, cụ Cải chuyển nhượng cho Công ty Xuất nhập khẩu, sản xuất, dịch vụ và đầu tư quận 1, thành phố HCM (Sunimex) căn nhà trên khuôn viên 1.540m2 đất (22m X 70m). Phần chái bên phải của căn nhà có diện tích 280m2 (4m X 70m) các cụ giữ lại để làm nhà ở. Do cụ Cải bị bệnh phải về nhà bà LQ_Âu Mẫn (số 15/8 ấp Trung Tre, xã LX, quận TĐ) để ở và chữa bệnh, nên phần chái nhà nêu trên các cụ giao cho bà LQ_Âu Mỵ, ông Nguyễn Văn Đan (con gái và con rể) ở. Năm 1994, khi bà LQ_Mỵ, ông Đan sang Mỹ định cư, bà BĐ_Miên, ông Thái mượn diện tích đất này làm lối đi với lý do lối đi phía đường ray xe lửa (nay là hẻm số 318 Nguyễn Xí, phường 13, quận BT) đã bị chủ đất bịt lại, sau đó bà BĐ_Miên, ông Thái tự ý làm chủ quyền nhà đứng tên ông Thái, bà BĐ_Miên. Khi biết được việc này, cụ Ngọc đã khiếu nại với ủy ban nhân dân phường 13, quận BT, nhưng cho đến nay vẫn chưa được giải quyết. Năm 1995, cụ Cải chết không để lại di chúc. Năm 2000, cụ Ngọc chết có di chúc để lại diện tích nhà, đất 280m2 (4m X 70m) tại số 319 đường NTL, phường 13, quận BT cho bà được hưởng, nên bà yêu cầu bà BĐ_Miên và các con của bà BĐ_Miên trả lại diện tích nhà, đất nêu trên cho các thừa kế của cụ Ngọc, cụ Cải.
29/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2504
- 53
Tuy chị BĐ_Phụng không phải thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng, cụ Ngự, nhưng là cháu nội của hai cụ và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa chữa nhà nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, chị BĐ_Phụng không yêu cầu xem xét công sức vì chị BĐ_Phụng cho rằng vụ án đã hết thời hiệu chia thừa kế, không đồng ý trả nhà đất cho các thừa kế. Như vậy, yêu cầu của chị BĐ_Phụng đề nghị xác định quyền lợi là lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa xem xét công sức cho chị BĐ_Phụng là giải quyết chưa triệt để yêu cầu của đương sự.