cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

11/2003/HĐTP-KT Giám đốc thẩm Kinh doanh thương mại

  • 3274
  • 118

Tranh chấp hợp đồng liên doanh

06-11-2003

Hợp đồng liên doanh này được Ủy ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cấp Giấy phép đầu tư số 648/GP ngày 28/07/1993. Tổng số vốn đầu tư là 10.481.300 USD, trong đó vốn pháp định là 9.481.300USD. Bên Việt Nam góp 45% vốn pháp định gồm quyền sử dụng đất trong 4,5 năm đầu và một phần máy móc thiết bị; bên nước ngoài góp 55% vốn pháp định bằng dây chuyền thiết bị máy móc sản xuất băng từ. Thời hạn hoạt động của liên doanh là 20 năm.


91/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 611
  • 10

Tranh chấp thừa kế

24-07-2013

Năm 1988 cụ Tu chết thì ông BĐ_Quý con trai trưởng của cụ Tu quản lý phần đất còn lại. Quá trình quản lý, ông BĐ_Quý đã nhiều lần bán đất cho ông LQ_Nguyễn Đức Quang, bà LQ_Hoàng Thị Toàn và ông LQ_Vũ Hữu Ngoạn (sau khi mua đất của ông BĐ_Quý, ông LQ_Quang đã san lấp và bán lại cho những người khác). Do cố Lựu chết không để lại di chúc nên cụ NĐ_Lưu yêu cầu chia thừa kế toàn bộ tài sản của cố Lựu (riêng phần đất cụ Tu đã bán không yêu cầu chia). Đối với những phần đất ông BĐ_Quý đã bán cụ NĐ_Lưu đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật


100/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1422
  • 17

Tranh chấp thừa kế

12-08-2013

Sau khi cụ Thiềm chết, ông NĐ_Hòa, bà BĐ_Tý và bà BĐ_Hên đã tự phân chia căn nhà thành 3 phần để ở. Ngày 18/10/1992, bà BĐ_Tý bán phần nhà đang sử dụng cho bà LQ_Nguyễn Thị Kiều và ngày 31/10/1993 bà BĐ_Hên bán tiếp phần nhà bà đang ở cho bà LQ_Hà Thùy Loan. Năm 1993, ông NĐ_Hòa khởi kiện yêu cầu chia thừa kế nhà đất của cha mẹ nêu trên theo pháp luật. Việc giải quyết vụ án kéo dài từ năm 1993 đến 1996 và bị tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm năm 1997. Năm 2007, vụ án được thụ lý lại.


99/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1752
  • 44

Tranh chấp thừa kế

12-08-2013

Cố Còn và cố Ca chết, không để lại di chúc. Các con của các cố sống phân tán, chưa tập trung được để phân chia tài sản của cha mẹ để lại. Năm 1998, cụ BĐ_Phi (một trong 5 người con của các cố) tự ý kê khai đất, mà không báo cho anh em biết. Ngày 20/12/1999, hộ cụ BĐ_Nguyễn Tấn Phi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 23.254m2. Cụ và các đồng thừa kế khác đã nhiều lần yêu cầu cụ BĐ_Phi chia tài sản của cha mẹ để lại cho anh em, nhưng cụ BĐ_Phi không đồng ý. Do đó, cụ khởi kiện và yêu cầu chia tài sản


82/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1179
  • 19

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà, đất

08-07-2013

Ngày 24/12/1973, vợ chồng cụ LQ_Huệ tự ý bán một căn nhà lợp tole, vách ván, nền xi măng (nay là số 128/1 NVQ, khu phố 2, phường TTH, quận X) cho cụ Trương Chiến với giá 80.000 đồng (riêng phần đất thì không bán mà cụ Trương Chiến vẫn phải trả tiền thuê hàng năm là 500 đồng). Sau khi phát hiện cụ LQ_Huệ tự ý bán phần đất chung là phần nhà xây trên đất thừa kế thì cụ Nha tranh chấp từ năm 1990 và khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện HM, ngày 28/4/2006 cụ Nha chết. Nay ông đại diện cho các thừa kế của cụ Nha yêu cầu hủy việc mua bán nhà giữa cụ Mình, cụ LQ_Huệ với cụ Trương Chiến. Ông đồng ý hoàn trả tiền mua nhà và chi phí sửa chữa, đồng thời chấp nhận bồi thường thiệt hại, yêu cầu bà BĐ_Kinh (con của cụ Trương Chiến) trả nhà trong thời hạn 02 tháng, khi di dời sẽ hỗ trợ 50 triệu đồng. Trường hợp bà BĐ_Kinh muốn tiếp tục sử dụng nhà thì phải hoàn trả giá trị đất và thanh toán giá trị đất trong 6 tháng.