215/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1403
- 24
Yêu cầu xác nhận quyền thừa kế
Cụ Nghế chết năm 1994 Cụ Hiển chết năm 1993. Khi chết hai cụ không để lại di chúc. Di sản để lại gồm: - Một căn nhà cấp 3, xây năm 1988 diện tích 69,6m2 và công trình phụ tọa lạc trên thửa đất 147,6m2 tại thửa 106, tờ bản đồ số 41 hiện do chị LQ_Dương Thị Soài (vợ của ông Trương Quang Tiến quản lý sử dụng). - Một căn nhà cấp 4, xây năm 1990 diện tích 16m2 tọa lạc trên thửa đất 123,6m2 tại thửa 96 tờ bản đồ số 41 do anh NĐ_Trương Quang Khôi quản lý sử dụng.
180/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 425
- 5
Chị Nguyễn Thị Thúy và anh Lê Hồng Thắng chung sống với nhau năm 1990 trên cơ sở tự nguyện được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục nhưng không đăng ký kết hôn. Từ năm 2000 phát sinh mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm, chị Thúy nghi ngờ anh Thắng có quan hệ ngoại tình, còn anh Thắng cho rằng chị Thúy không tu chí làm ăn và ham mê cờ bạc, hai người thường xuyên cãi vã nhau. Hai người xét thấy tình cảm không còn đề nghị được giải quyết ly hôn. Về con chung: Có 02 cháu là Lê Thị Thúy Lan, sinh ngày: 14/6/1991 và Lê Thị Linh, sinh ngày: 6/6/1995 chị Thúy xin nuôi cả hai con chung và đề nghị anh Thắng đóng góp phí tổn nuôi con. Anh Thắng đề nghị được nuôi 01 con. Nguyện vọng của hai cháu xin được ở với mẹ.
156/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 278
- 7
Bà Lộc Thị Chi và anh NĐ_Vi Văn Oanh ủy quyền trình bày: nguồn gốc diện tích đất tranh chấp nằm lọt giữa khu đất tại rừng Khum Cang của gia đình bà đang sử dụng hơn 700m2 và do bố mẹ chồng bà sử dụng từ năm 1964 để trồng trám, mít, bạch đàn... Năm 1986 gia đình bà đã chặt một số cây làm nhà cửa, năm 1992 gia đình tiếp tục chặt cây không có ai tranh chấp. Năm 1994 gia đình bà được Ủy ban nhân dân huyện LB cấp sổ đỏ bìa xanh đối với khu rừng Khum Cang, diện tích 1,58 ha trong đó cả đất tranh chấp. Từ đó gia đình bà vẫn tiếp tục quản lý sử dụng đất trồng cây. Năm 2001, anh BĐ_Vi Văn Đoàn đến tranh chấp đất với lý do đó một gia đình anh BĐ_Đoàn có một nền nhà cũ trên đất khu rừng Khum Cang của gia đình bà. Nay con bà là NĐ_Vi Văn Oanh đứng tên trên sổ bìa xanh giai đình bà không nhất trí trả đất cho anh BĐ_Đoàn.
149/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 217
- 8
Theo đơn khởi kiện ngày 18/3/2005, nguyên đơn trình bày: tháng 1/1996 ông NĐ_Vũ Đình Lâm làm đơn xin cấp đất xây dựng nhà ở. Ngày 24/8/1996 được ủy ban nhân dân xã Hòa Khánh xác lập hồ sơ giao đất tại bản đồ số 5, thửa 291, diện tích 200m2 do ông Dương Thành Thị - Chủ tịch xã ký đóng dấu. Sau đó, ông NĐ_Lâm làm ngôi nhà cấp 4, trồng trụ rào bảo vệ bằng kẽm gai, đóng giếng khoan trên diện tích đất được cấp nhưng chưa đăng ký quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất. Năm 2000, vợ chồng ông BĐ_Nguyễn An Nhật Tú đã đập phá hàng rào, giếng khoan để xây móng đá hộc và lấn chiếm phần đất của ông NĐ_Lâm khoảng 82m2.
128/2006/PS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 425
- 6
Cụ Kiều Văn Trễ và Nguyễn Thị Sờ sinh được 3 người con gái là bà NĐ_Kiều Thị Thìn, bà BĐ_Kiều Thị Ân và bà Kiều Thị Lạc. Khi còn sống, 2 cụ tạo lập được 3 gian nhà tranh vách đất trên thửa đất diện tích 422m2, tại thôn TN, xã Thanh Lăng, huyện BX, tỉnh VP. Trong 3 chị em gái thì chỉ có bà NĐ_Thìn và bà Lạc đi xây dựng gia đình, bà BĐ_Ân không lấy chồng và ở nhà sống cùng cha mẹ. Năm 1959 cụ Trễ chết không để lại di chúc. Năm 1982 bà BĐ_Ân đón chị Nguyễn Thị Oanh (con bà Lạc) về sống cùng bà và cụ Sờ. Năm 1992 bà BĐ_Ân và cụ Sờ dỡ nhà cũ xây thành nhà 5 gian cấp 4 và công trình phụ như hiện nay. Năm 1997 cụ Sờ chết. Năm 1998 bà BĐ_Ân kê khai và năm 1999 bà BĐ_Ân được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 2.519m2 trong dó có 422m2 đất của cha mẹ để lại mà bà BĐ_Ân đang sử dụng làm nhà ở. Năm 2004, bà BĐ_Ân có ý định cho chị Oanh nhà đất, nên xảy ra tranh chấp giữa bà NĐ_Thìn và bà BĐ_Ân.