453/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 442
- 4
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Theo đơn khởi kiện đề ngày 01/1/2004 và quá trình tố tụng nguyên đơn là bà LQ_Lê Thị Minh trình bày: yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà BĐ_Nguyễn Xuân Linh phải giao đủ diện tích nhà đất 60,72m2 (gồm 2 gian, phía Bắc và phía Nam) tại số 7 PBC, thị xã TH, tỉnh PY cho bà theo Hợp đồng mua bán nhà ngày 18/9/2003, công chứng ngày 18/9/2003 tại Phòng chứng số 1 tỉnh PY. Theo bà LQ_Minh, bà đã trả đủ tiền mua nhà là 100 triệu cho bà BĐ_Linh, bà BĐ_Linh đã giao nhà cho bà nhưng bà BĐ_Linh xin ở lại một thời gian (vì chồng bà BĐ_Linh mới chết), nên bà đồng ý. Khi đang trong quá trình làm thủ tục sang tên thì bà LQ_Nguyễn Thị Ánh Ngân (em gái bà BĐ_Linh) đến chiếm lại căn phòng phía Nam (20m2) và cho rằng là của bà LQ_Ngân được mẹ la cụ NĐ_Hà cho, không phải của bà LQ_Minh. Bà LQ_Minh cũng có yêu cầu bà LQ_Ngân trả lại phần nhà phía Nam để bà BĐ_Linh giao lại bà theo hợp đồng.
460/2005/DSPT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 845
- 6
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Năm 1985, gia đình bà NĐ_Nguyễn Thị Thu Phụng được Ủy ban nhân dân xã AB tạm cấp phần đất thổ cư có diện tích 431,2m2 tọa lạc tại tổ 8, xã AB, huyện Thuận An, tỉnh BD. Ngày 10/12/1991, chồng bà NĐ_Phụng là ông LQ_Mã Trường Sinh được Ủy ban nhân dân huyện Thuận An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần diện tích đất nói trên. Ngày 20/12/1991 ông LQ_Sinh tự ý chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông BĐ_Trần Đình Linh diện tích 205,5m2 với giá chuyển nhượng là 30 chỉ vàng. Ngày 29/11/1992 ông LQ_Sinh tự ý chuyển quyền sử dụng đất cho ông BĐ_Nguyễn Minh Tú 64,68m2 đất có nhà với giá 40 chỉ vàng 24K. Sau khi chuyển nhượng đất ông LQ_Sinh, ông BĐ_Linh chuyển nhượng lại cho ông BĐ_Nguyễn Minh Tú 128,59m2 với giá 70 chỉ vàng 24K và ông LQ_Nguyễn Văn Đương 77m2 giá 50 chỉ vàng.
27/2015/GĐT-DS: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1477
- 67
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Tại “Đơn khởi kiện đòi đất” đề ngày 30/6/2004 và các đơn yêu cầu, lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà NĐ_Phạm Thị Hương, NĐ_Phạm Thị Hữu, NĐ_Phạm Thị Hà trình bày: Cha, mẹ các bà là cụ Phạm Văn Hoạt (chết năm 1978) và cụ Ngô Thị Vận (chết ngày 21/8/1994) có bảy con là ông BĐ_Phạm Văn Hè, ông Phạm Văn Đạt (chết năm 1998), ông LQ_Phạm Văn Thủ, ông Phạm Văn Quang (chết năm 2000) và các bà là NĐ_Phạm Thị Hương, NĐ_Phạm Thị Hữu, NĐ_Phạm Thị Hà. Sinh thời các cụ có gian nhà, gian bếp trên khoảng 464m2 đất tại thị trấn QO, tỉnh Hà Tây (cũ, nay thuộc thành phố HN).
25/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 984
- 17
Tại đơn khởi kiện ngày 03/4/1995 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn ông NĐ_Đào Xuân Minh trình bày: Ngôi nhà số 6 ngõ Bảo Khánh là nhà gạch 1 tầng, diện tích 175m2 trên thửa đất số 1666/1, diện tích 278m2, mang bằng khoán điền thổ số 2253 khu Nhà thờ thuộc sở hữu của các cụ tổ họ tộc họ Đào là: Đào Xuân Mậu, Đào Xuân Hương và một số người thân thuộc khác. Năm 1924 cụ Đào Bá Hoan là người được quản lý nhà thờ đã viết di chúc cho cụ Đào Xuân Nhận quản lý ngôi nhà thờ họ Đào này (tài liệu tại hồ sơ án không phản ánh mối quan hệ giữa cụ Mậu, cụ Hương, cụ Nhận trong tộc họ Đào). Năm 1940 cụ Nhận chết đột ngột, ông là con trai duy nhất của cụ Nhận và thuộc ngành trưởng nên được tiếp tục quản lý nhà này, nhưng lúc đó, ông mới được một tuổi nên mẹ ông là cụ Đỗ Thị Xuất (tức Tơ) đã quản lý thay ông.
24/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 789
- 26
Năm 1976 cố Nguyễn Thị Dành (là mẹ cụ Nguyễn Thị Hai Hoanh và là bà ngoại của ông) cho ông 700m2 đất tại khu phố ĐN, thị trấn LT, huyện TA, tỉnh BD. Ông đã dựng nhà trên đất rồi đón cụ Hai Hoanh về sống chung. Năm1977 ông mua của ông Lưu Văn Tư diện tích đất có vị trí liền kề nhà và đất nêu trên, nhưng để cụ Hai Hoanh đứng tên trên giấy tờ mua bán. Sau khi mua đất, ông và cụ Hai Hoanh cùng trực tiếp quản lý và sử dụng đất. Năm 1985 cụ Hai Hoanh đứng tên đăng ký, kê khai toàn bộ diện tích đất nêu trên.