110/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 402
- 4
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ngày 08/12/2009, bà NĐ_Phạm Thị Bích Nga có cho bà BĐ_Nguyễn Thị Sang vay số tiền 2.500.000.000đ (hai tỷ năm trăm triệu đồng), hợp đồng có chứng thực của phòng công chứng, thời hạn vay là 02 tháng, lãi suất vay là 3%. Vì tin tưởng nhau nên ngày 18/12/2009, bà NĐ_Nga và bà BĐ_Sang có lập hợp đồng hợp tác liên doanh (bà BĐ_Sang là chủ doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Sanh) xây dựng chung cư 17 Củ Chi, phường VH, thành phố NT. Để hoàn thành hợp đồng này, từ ngày 15/12/2009 đến ngày 18/12/2009, bà NĐ_Nga đã chuyển cho bà BĐ_Sang tổng cộng số tiền 4.000.000.000đ (bốn tỷ đồng). Từ khi nhận được tiền, bà BĐ_Sang cố tình không thực hiện đúng theo các thỏa thuận đã ký kết trong hợp đồng. Nay bà NĐ_Nga yêu cầu bà BĐ_Sang phải trả lại cho bà tổng số tiền đã nhận là 6.500.000.000đ (sáu tỷ năm trăm triệu đồng) và lãi suất theo quy định của pháp luật.
10/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 627
- 12
Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự do người chết để lại
Theo giấy biên nhận ngày 21/12/2010 có nội dung anh Trần Tố Anh có nhận giữ cho anh NĐ_Hà 02 cây vàng. Theo kết quả giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh ĐN ngày 27/7/2011 có căn cứ cho rằng chữ viết họ và tên Trần Tố Anh và nội dung giữ hộ 02 cây vàng cho anh NĐ_Hà là do anh Tố Anh viết ra, nhưng chữ ký trên giấy biên nhận chưa đủ cơ sở kết luận vì chữ ký khác dạng, chưa có mẫu so sánh cùng thời điểm. Tòa án nhân dân thành phố BH không tiếp tục thu thập chứng cứ để thực hiện việc giám định mà buộc chị BĐ_Hân thực hiện nghĩa vụ trả vàng cho anh NĐ_Hà là chưa có căn cứ vững chắc. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn buộc chị BĐ_Hân phải chịu lãi suất chậm trả theo quy định tại Điều 305 Bộ luật dân sự là trái pháp luật, nên kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh ĐN là có căn cứ.