cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

67/2014/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1157
  • 31

Tranh chấp thừa kế

28-02-2014

Tại Đơn khởi kiện ngày 13/3/2006 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông NĐ_Ngô Văn Bảo, bà NĐ_Ngô Thị Ba và ông NĐ_Ngô Văn Chiến trình bày: Cha mẹ các ông bà là cụ Ngô Văn Quýt (chết năm 1978) và cụ Hồ Thị Hiền (chết năm 2002) sinh được 4 người con là ông NĐ_Ngô Văn Bảo, ông NĐ_Ngô Văn Chiến, bà NĐ_Ngô Thị Ba và bà BĐ_Ngô Thị Tiên. Khi còn sống, cụ Quýt, cụ Hiền tạo lập được tài sản là đất đai, nhà cửa và một số đồ dùng sinh hoạt trong gia đình. Sau giải phóng, hai cụ chia cho ông NĐ_Bảo, ông NĐ_Chiến mỗi người khoảng 3000 đến 4000m2 đất (ông NĐ_Bảo, ông NĐ_Chiến đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với các phần đất này). Đến khi hai cụ đều qua đời thỉ phần đất còn lại có diện tích 6.732m2 (đo thực tế 6.657m2 gồm cả đất thổ cư và đất lúa) do cụ Hiền đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 27/02/1997.


145/2013/GĐT/DS : Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 342
  • 7

Tranh chấp quyền sử dụng đất

16-12-2013

Tại đơn khởi kiện đề ngày 22-11-2006 và quá trình tố tụng; nguyên đơn ông NĐ_Dương Văn Tình trình bày: Ông là người Việt Nam định cư tại Canada, do có ý định đầu tư kinh doanh ở Việt Nam nên khoảng năm 1995 gia đình ông đã họp với sự tham gia của cụ LQ_Dương Xuyến Linh (cha của ông và ông BĐ_Phụng) và các em của ông là BĐ_Dương Văn Phụng, Dương Văn Xuyên, Dương Văn Quốc, Dương Thị Bé Liễu, LQ_Dương Thị Bé Thanh, Dương Văn Vũ để bàn bạc về việc ông gửi tiền về Việt Nam nhờ gia đình mua đất và đứng tên hộ. Tại cuộc họp này, gia đình đã thống nhất để ông gửi tiền về cho cụ LQ_Dương Xuyến Linh và bà LQ_Dương Thị Bé Thanh giữ, sau đó chuyển tiền cho ông BĐ_Dương Văn Phụng giao dịch mua đất và đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hộ ông.


127/2013/ DS-GĐT: Đòi lại tài sản Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 287
  • 3

Đòi lại tài sản

24-09-2013

Năm 1990, ông NĐ_Khoa, bà NĐ_Minh sang định cư tại Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình. Trước khi xuất cảnh, ông NĐ_Khoa, bà NĐ_Minh đã lập giấy tờ ủy quyền cho ông Ngô Văn Biểu (em ruột của bà NĐ_Minh) trông coi quản lý nhà đất nêu trên. Sau khi ông NĐ_Khoa, bà NĐ_Minh xuất cảnh, ông Biểu là người trực tiếp quản lý, trông coi nhà đất. Ngày 06/01/1996, ong Biểu đã lập văn bản cam kết sẽ hoàn trả nhà đất cho ông NĐ_Khoa, bà NĐ_Minh khi ông bà có yêu cầu. Năm 2002, ông NĐ_Khoa, bà NĐ_Minh có ý định hồi hương nên ngày 01/3/2002, ông Biểu đã làm giấy hoàn trả nhà đất cho ông NĐ_Khoa, bà NĐ_Minh. Cũng trong thời gian này, ông Biểu bị bệnh nặng nên vợ chồng anh BĐ_Ngô Tiến Dương (con của ông Biểu), chị LQ_Đào Thị Thanh đã chuyển về sống cùng ông Biểu tại căn nhà nêu trên để chăm sóc ông Biểu. Ngày 07/01/2003, ông Biểu chết Sau khi ông Biểu chết thì bà BĐ_Trần Thị Dương (vợ của ông Biểu) và vợ chồng anh BĐ_Dương, chị LQ_Thanh là những người trực tiếp quản lý, sử dụng nhà đất của ông NĐ_Khoa, bà NĐ_Minh. Năm 2006, vợ chồng anh BĐ_Dương phá bỏ căn nhà cũ, xây nhà mới.


127/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 305
  • 9

Đòi lại tài sản

24-09-2013

Tại Đơn khởi kiện ngày 20/6/2008 và quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Kỷ, bà Ngô Thị Mai (do ông Phạm Xuân Thu đại diện theo ủy quyền) trình bày: Trước năm 1990, ông Kỷ, bà Mai tạo lập được một căn nhà cấp 4 tường gạch, mái lợp tôn, nền láng xi măng trên diện tích 639,9m2 đất (nay có địa chỉ là số nhà 330/14/43 khu phố 5, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai). Năm 1990, ông Kỷ, bà Mai sang định cư tại Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình. Trước khi xuất cảnh, ông Kỷ, bà Mai đã lập giấy tờ ủy quyền cho ông Ngô Văn Biểu (em ruột của bà Mai) trông coi quản lý nhà đất nêu trên.