Luật Hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 ngày 19/06/2014 của Quốc Hội
- Số hiệu văn bản: 52/2014/QH13
- Loại văn bản: Luật
- Cơ quan ban hành: Quốc hội
- Ngày ban hành: 19-06-2014
- Ngày có hiệu lực: 01-01-2015
- Tình trạng hiệu lực: Đang có hiệu lực
- Thời gian duy trì hiệu lực: 3616 ngày (9 năm 11 tháng 1 ngày)
- Ngôn ngữ:
- Định dạng văn bản hiện có:
Bản án sử dụng
- 76/2015/DS-ST (13-03-2015) Áp dụng: Điều 33; Điều 34; Điều 35
- 03/2015/DS-ST (06-01-2015) Áp dụng: Điều 27
- 106/2015/DS-ST (02-02-2015) Áp dụng: Khoản 1 Điều 56, Điều 57
- 44/2015/DS-ST (10-02-2015) Áp dụng: Điều 27
- 240/2015/HNGĐ-ST (09-04-2015) Áp dụng: Điều 55; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84
- 344/2015/DS-ST (17-04-2015) Áp dụng: Điều 51; Điều 56
- 450/2015/DS-ST (11-05-2015) Áp dụng: Điều 56; Điều 58; Điều 59; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84; Điều 110; Điều 117
234/2016/ HNPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1833
- 39
Nguyên đơn bà NĐ_Phạm Thị Vân trình bày: Bà và ông BĐ_Thoa tự nguyện kết hôn năm 1999, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Thiệu Hợp, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống bên nhà chồng, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2008 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do ông BĐ_Thoa thường xuyên uống bia rượu, về nhà đánh đập xúc phạm bà, thời gian kéo dài, vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc nhau. Nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng không còn, nay bà xin được ly hôn với ông BĐ_Thoa.
266/2016/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 449
- 21
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Trong đơn khởi kiện ngày 16/01/2015, tại các biên bản làm việc tại tòa nguyên đơn – Bà NĐ_Phạm Thị Ngọc Hoa trình bày: Ngày 22/11/2013, bà NĐ_Hoa cùng chồng là ông LQ_Nguyễn Văn Mẫn có cho vợ chồng bà BĐ_Trần Thị Hữu và LQ_Lê Xuân Dũng vay 02 lần với số tiền tổng cộng là 120.000.000 đồng (Một trăm hai mươi triệu đồng), cụ thể: Lần 1: Vay số tiền 70.000.000 đồng với thời hạn 03 tháng, lãi suất sẽ thỏa thuận khi trả nợ. Lần 2: Vay số tiền 50.000.000 đồng với thời hạn 03 tháng, lãi suất sẽ thỏa thuận khi trả nợ. Cả 02 lần nhận tiền bà BĐ_Hữu đều viết giấy vay tiền và ký tên. Sau đó, ông LQ_Dũng và bà BĐ_Hữu trả cho bà NĐ_Hoa được 02 lần với số tiền là 8.000.000 đồng; khi đến hạn do bên vay không trả nợ nên phát sinh tranh chấp. Bà NĐ_Hoa khởi kiện yêu cầu ông LQ_Dũng và bà BĐ_Hữu trả số tiền còn nợ là 112.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh theo quy định tính từ ngày 23/02/2014 đến ngày xét xử sơ thẩm, thi hành một lần khi án có hiệu lực pháp luật.
485/2016/HN-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1764
- 81
Bà NĐ_Nguyễn Thị Lệ Mon và ông BĐ_Hoàng Văn Đỉnh đã ly hôn theo Bản án số 30/2014/HNGĐ-ST ngày 30/09/2014 của Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh ngày 30/09/2014, theo bản án ông BĐ_Đỉnh được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung của ông bà là Hoàng Minh Anh sinh ngày 17/08/2006 và Hoàng Minh Anh Nam sinh ngày 08/06/2008. Tuy nhiên, ông BĐ_Đỉnh không trực tiếp nuôi con mà lập giấy ủy quyền có chứng thực ngày 30/06/2015 tại Ủy ban nhân dân phường Trung Dũng, thành phố Biên Hòa cho em gái là bà Hoàng Thị Kim nuôi cả hai con, với lý do là ông BĐ_Đỉnh bận công việc. Bà NĐ_Mon đến thăm hai con nhưng bị cản trở, gây khó khăn trong việc tiếp cận với con và việc học hành của con.
624/2016/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2764
- 53
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ngày 23/07/2013 ông NĐ_Nguyễn Việt Hà và ông BĐ_Vũ Trần Đức Dương ký hợp đồng vay tiền số 0107/HĐVV/2013, nội dung: Ông BĐ_Dương vay số tiền là 4.900.000.000đ trong hạn 02 ngày từ 23 – 25/07/2013, lãi suất 0,0913%/ngày tương đương 2,74%/tháng, lãi quá hạn 4,1%/tháng. Hợp đồng vay tiền này không có tài sản bảo đảm. Cùng ngày, hai bên ký biên bản giao nhận tiền xác nhận ông BĐ_Dương đã nhận đủ 4,9 tỷ đồng. Đến 26/03/2014 ông BĐ_Dương trả được 791.000.000đ tiền gốc và toàn bộ tiền lãi tính đến 26/03/2014, còn nợ lại 4.109.000.000đ. Nay yêu cầu ông BĐ_Dương trả nợ gốc là 4.109.000.000đ và tiền lãi từ 26/03/2014 đến ngày tuyên án sơ thẩm theo lãi suất 13,5%/năm.
115/2014/HN-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 776
- 7
Ông và bà BĐ_Dương Thị Quỳnh Nhung là vợ chồng đã ly hôn theo quyết định số 42/2012/CNTT-HNGĐ-ST ngày 28/2/2012 của Tòa án nhân dân quận X. Nội dung quyết định đã giao con chung là trẻ Đỗ Quế Vy sinh ngày 15/02/2009 cho bà BĐ_Nhung trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc. Ông NĐ_Tùng cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đồng cho đến khi con thành niên. Nhưng sau khi ly hôn bà BĐ_Nhung lấy lý do đi làm xa để trẻ Quế Vy lại cho bà ngoại và ông NĐ_Tùng chăm sóc, nuôi dưỡng, không hề quan tâm. Nay ông NĐ_Tùng yêu cầu được thay đổi người nuôi con và trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc trẻ Quế Vy. Không yêu cầu bà BĐ_Nhung cấp dưỡng nuôi con.
743/2014/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1321
- 31
Sau khi kết hôn bà NĐ_Minh và ông BĐ_Võ Phương Thủy về chung sống tại gia đình bên mẹ chồng tại số 357/36/5 HG Phường 11, Quận X. Cuộc sống vợ chồng khởi đầu hạnh phúc không lâu thì phát sinh nhiều mâu thuẫn nhỏ, bà NĐ_Minh nghĩ do chưa hiểu nhau và đã cố gắng hòa hợp để cùng chia sẻ chung sống hạnh phúc với ông BĐ_Võ Phương Thủy. Qua nhiều năm chung sống ông BĐ_Thủy lấy nhiều lý do từ chối việc có con chung cũng như tự quyết định mọi vấn đề trong gia đình, do không được quan tâm của chồng, bà NĐ_Minh đã nhiều lần tâm sự nhờ mẹ chồng giúp đỡ mong cải thiện tình cảm giữa bà NĐ_Minh với ông BĐ_Thủy nhưng vẫn không thay đổi.
485/2015/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1654
- 18
Theo đơn khởi kiện ngày 25/11/2014, bà NĐ_Nguyen Thi Thanh Thanh (NĐ_Nguyễn Thị Thanh Thanh) trình bày: Bà và ông BĐ_Lê Văn Quyết tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào sổ số 1796, quyển số 06 ngày 26/05/2009 của Ủy ban nhân dân Thành phố HCM. Sau khi kết hôn, bà trở về Đức để làm việc, thỉnh thoảng bà về Việt Nam thăm ông BĐ_Quyết. Bà nhận thấy giữa bà và ông BĐ_Lê Văn Quyết có sự bất đồng ý kiến và không hòa hợp. Dần dần bà và ông BĐ_Quyết liên lạc ít đi và đến năm 2011 thì không còn liên lạc với nhau nữa. Nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố HCM giải quyết cho bà ly hôn với ông BĐ_Lê Văn Quyết. Bà yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt tại các phiên hòa giài và xét xử cho đến khi kết thúc vụ án.