cơ sở dữ liệu pháp lý

1698/2016/HC-ST: Khiếu kiện Quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng Sơ thẩm Hành chính
  • 4274
  • 49

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

20-09-2016
TAND cấp huyện

Nguồn gốc đất căn nhà số 117 đường số 3, cư xá Thanh Đa, Phường 27, quận BT, Thành Phố HCM là đất của cha bà NĐ_Ngô Hà Phương Thư- ông Ngô Viết Tư khai phá, canh tác từ năm 1975 và làm nhà để ở vào năm 1976. Năm 1989-1990 khi các con lập gia đình, cha bà NĐ_Thư đã chia cho mỗi con một phần để ở, bà NĐ_Thư được chia khoảng 48 m2. Cha bà NĐ_Thư cùng gia đình đã ở trên diện tích đất này và sử dụng ổn định liên tục, không có tranh chấp đến ngày duyệt phương án bồi thường đoạn 1.4 ngày 19/4/2011 là đã 36 năm. Việc sử dụng đất đã được địa chính phường, Ủy ban nhân dân và công an Phường 27 quận BT xác nhận. Trong suốt quá trình sử dụng, gia đình bà NĐ_Thư không nhận được bất kỳ một thông báo hay văn bản ngăn chặn vi phạm lấn chiếm nào của cơ quan chính quyền các cấp và không vi phạm Khoản 4 Điều 14 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP.


1939/2016/HC-ST: Khiếu kiện Quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng Sơ thẩm Hành chính
  • 1264
  • 27

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

20-09-2016
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện ngày 05/10/2011, Đơn xin thay đổi và bổ sung nội dung yêu cầu khởi kiện ngày 10/01/2016, bản tự khai và các biên bản đối thoại, Biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và đối thoại, người khởi kiện ông NĐ_Ngô Hoàng Tuấn và đại diện người khởi kiện – ông Ngô Hoàng Tuấn trình bày: Nguồn gốc đất căn nhà số 121 đường số 3, cư xá Thanh Đa, Phường 27, quận BT, Thành Phố HCM là đất của cha ông Tùng - ông Ngô Viết Tư khai phá, canh tác từ năm 1975 và làm nhà để ở vào năm 1976. Năm 1989-1990 khi các con lập gia đình, cha ông Tùng đã chia cho mỗi con một phần để ở, ông Tùng được chia 50,6 m2. Cha ông Tùng cùng gia đình đã ở trên diện tích đất này và sử dụng ổn định liên tục, không có tranh chấp đến ngày duyệt phương án bồi thường đoạn 1.4 ngày 19/4/2011 là đã 36 năm. Việc sử dụng đất đã được địa chính phường, Ủy ban nhân dân và công an Phường 27 quận BT xác nhận. Trong suốt quá trình sử dụng, gia đình ông Tùng không nhận được bất kỳ một thông báo hay văn bản ngăn chặn vi phạm lấn chiếm nào của cơ quan chính quyền các cấp và không vi phạm Khoản 4 Điều 14 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP.


336/2014/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 399
  • 3

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

24-09-2014
TAND cấp huyện

Do cần vốn làm ăn nên ngày 01/10/2013, bà BĐ_Phan Thị Thủy có hỏi vay của bà số tiền 80.000.000 (tám mươi triệu) đồng và cùng ngày cả hai đã ra Phòng công chứng Đầm Sen (địa chỉ: 277 đường Minh Phụng, Phường 2, Quận T, Thành phố HCM) ký Hợp đồng vay tiền (theo Hợp đồng vay tiền số công chứng 00023891, quyển số 08, ngày 01/10/2013), thời hạn vay từ ngày 01/10/2013 đến ngày 24/12/2013, thỏa thuận lãi suất là 1,1%/tháng và ngay trong ngày ký hợp đồng, bà BĐ_Thủy đã nhận đủ số tiền 80.000.000 đồng. Nhưng từ khi nhận tiền, bà BĐ_Thủy chỉ trả cho bà được 1.000.000 (một triệu) đồng tiền lãi rồi ngưng luôn cho đến nay, mặc dù bà đã nhiều lần gọi điện thoại nhắc nhở, nhưng bà BĐ_Thủy vẫn không thực hiện.


1309/2014/DSPT: Đòi lại tài sản Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 2439
  • 66

Đòi lại tài sản

25-09-2014
TAND cấp tỉnh

Theo đơn khởi kiện ngày 05 tháng 11 năm 2012 và lời khai tại tòa, nguyên đơn - bà NĐ_Võ Thùy Linh trình bày: Do quen biết nên khi bà BĐ_Nguyễn Thị Minh Hoa mượn 20.000.000.000đồng và hứa hẹn sẽ trả lại trong thời gian ngắn, ngày 20/5/2009 bà đã chuyển khoản cho bà BĐ_Hoa 16.730.000.000đồng thông qua Ngân hàng Thương mại cổ phần Phương Nam - Phòng giao dịch Nguyễn Duy Dương (sau đây gọi tắt là Ngân hàng Phương Nam – PGD Nguyễn Duy Dương) theo đề nghị của bà BĐ_Hoa (thời điểm này bà NĐ_Linh không có đủ 20.000.000.000đồng). Vì tin tưởng bà BĐ_Hoa nói cần vốn làm dự án kinh doanh và sẽ bán nhà, đất hoặc đưa tài sản trả nợ sớm nên bà không viết giấy, không yêu cầu trả lãi, hơn nữa đã có lưu phiếu chuyển tiền. Nhiều lần bà yêu cầu bà BĐ_Hoa trả nợ nhưng bà BĐ_Hoa né tránh không gặp mặt. Bà đã gửi thông báo đòi nợ bà BĐ_Hoa cũng không trả lời nên bà đã gửi đơn tố cáo hành vi chiếm đoạt tiền của bà BĐ_Hoa đến Phòng Cảnh sát Điều tra - Công an Thành phố HCM. Ngày 01/11/2012, Phòng Cảnh sát Điều tra - Công an Thành phố HCM gửi cho bà Phiếu hướng dẫn số 1344/HD-PC45 (Đ1) về việc hướng dẫn bà nộp đơn kiện bà BĐ_Hoa tại Toà án nhân dân Quận X, Thành phố HCM.


345/2014/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 1360
  • 25

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

29-09-2014
TAND cấp huyện

Tại đơn khởi kiện đề ngày 26/8/2013, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay nguyên đơn bà NĐ_Trương Thị Phương, ông NĐ_Lê Tuấn Lân, ông NĐ_Lê Anh Hải do bà Trương Thị Kim Oanh đại diện theo ủy quyền trình bày: Vào năm 2007 ông Lê Văn Thiêm (là chồng của bà NĐ_Trương Thị Phương) cùng các ông BĐ_Võ Văn Lương, ông Nguyễn Đức Huy, ông Huỳnh Minh Hiển hùn vốn để thành lập LQ_Công ty cổ phần Thuỷ Sản Ba Lan ( sau đây viết tắt là LQ_Công ty Ba Lan) tại tỉnh ĐT. Tổng số tiền ông Thiêm tham gia góp cổ phần là 15.000.000.000 đồng, chiếm tỷ lệ 33% vốn góp.


363/2014/DS-ST: Đòi lại di sản thừa kế Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 1359
  • 23

Đòi lại di sản thừa kế

13-11-2014
TAND cấp huyện

Ông NĐ_Vân bà NĐ_Chi là con của ông Chung Bồi (đã chết, không nhớ năm nào) và bà Nguyễn Thị Ngành (chết năm 1948). Bà Ngành là con của ông Nguyễn Văn Bảy (chết năm 1981) và bà Huỳnh Thị Xi (chết năm 1996). Ông Bảy bà Xi có tất cả 02 người con là bà Ngành và ông Nguyễn Văn Sang (chết năm 2003). Ông Sang (trước năm 1975 ông Sang còn có tên là Nguyễn Văn Ba – gọi là Ba Nhỏ) có tất cả 03 vợ. Người vợ thứ nhất là bà Nguyễn Thị Tư (chết năm 2001), không có con chung, chỉ có 02 người con nuôi là ông LQ_Đỗ Như Vinh (còn có tên là Nguyễn Văn Trọng) và ông BĐ_Nguyễn Trung Thủy. Người vợ thứ hai là bà LQ_Nguyễn Thị Ngân, có 02 người con chung là ông LQ_Nguyễn Văn Tuấn và bà LQ_Nguyễn Thị Bình. Người vợ thứ ba là bà Huỳnh Thị Truyện (chết không nhớ năm nào), có 01 con chung là bà LQ_Huỳnh Thị Hà. Bà LQ_Nguyễn Thị Ngân có tất cả 3 người con là ông LQ_Nguyễn Văn Tuấn, bà LQ_Nguyễn Thị Bình và ông Nguyễn Văn Rớt.


1439/2014/DS-ST: Đòi lại nhà cho ở nhờ Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 692
  • 15

Đòi lại nhà cho ở nhờ

10-12-2014
TAND cấp tỉnh

Theo đơn khởi kiện ngày 18/02/2009, các lời khai ông NĐ_Nguyễn Trọng Hòa có bà Đặng Thị Ngọc Tú trình bày: Ngày 04/4/1964, ông có mua được căn nhà nhỏ lợp tôn vách tường số nhà 14/133 đường ND, Phường 07, quận GV của bà Nguyễn Thị Ba. Vì ông làm công nhân ở Đà Lạt nên ông để cho mẹ ông là bà Nguyễn Thị Đức sinh năm 1899 đứng tên. Năm 1970, gia đình ông cậu ông là Vũ Xuân Thọ bà Nguyễn Thị Noãn từ ngoài Đà Nẵng dọn vào, vì chưa mua được căn nhà vừa ý, nên ông và mẹ ông cho gia đình ông Thọ ở nhờ, không lấy tiền thuê nhà. Cuối năm 1971, ông Thọ ông mất vì lớn tuổi. Vợ của ông cậu và người con gái lớn là BĐ_Vũ Thị Linh tiếp tục ở cho đến ngày nay, mặc dù đã nhiều lần ông có yêu cầu muốn đòi lại căn nhà nhưng gia đình ông cậu không trả. Ông đã làm đơn xin ủy ban nhân dân phường 07, quận GV can thiệp nhưng không thành.