cơ sở dữ liệu pháp lý

08/2012/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người lao động) Sơ thẩm Lao động
  • 3272
  • 72

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người lao động)

07-09-2012
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện và lời trình bày của đại diện nguyên đơn NĐ_Công ty Cổ phần Giáo dục Khoa Minh (gọi tắt là Công ty): Ngày 07/5/2011, Công ty và ông BĐ_Nguyễn Anh Tú có ký hợp đồng lao động có thời hạn 03 năm, với công việc giáo viên dạy tiếng Anh, mức lương theo hợp đồng là 3.500.000 đồng/tháng; đồng thời hai bên ký hợp đồng đào tạo cùng ngày. Nội dung hợp đồng đào tạo Công ty sẽ huấn luyện đào tạo phương pháp và kỹ năng giảng dạy cho ông BĐ_Tú, mặt khác ông BĐ_Tú cam kết sẽ làm việc cho Công ty ít nhất 03 năm tính từ ngày ký hợp đồng đào tạo, nếu ông BĐ_Tú không làm đủ thời gian đã cam kết thì bồi thường cho Công ty số tiền đào tạo là 5.250 USD (tương đương số tiền 110.250.000 đồng)


09/2012/LĐST: Tranh chấp hợp đồng lao động và đòi tiền trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội Sơ thẩm Lao động
  • 709
  • 16

Tranh chấp hợp đồng lao động và đòi tiền trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội

10-09-2012
TAND cấp huyện

Tại đơn khởi kiện ngày 01/8/2011, tại bản tự khai ngày 14/11/2011, biên bản ghi nhận sự việc ngày 22/02/2012 và tại phiên hòa giải ngày 28/6/2012, nguyên đơn là bà NĐ_Trần Thị Kim Hữu trình bày: Vào ngày 02/4/2000, bà vào làm việc tại Phòng khám của bác sĩ BĐ_Nguyễn Quốc Thịnh với mức lương 4.600.000 đồng, đến 01/01/2006 bà ký hợp đồng không thời hạn với Phòng khám và từ tháng 4/2009 lương của bà là 5.400.000 đồng, quá trình làm việc không có sai sót hay bị kỷ luật gì. Ngày 01/10/2010, bà làm đơn xin nghỉ việc vì lý do sức khỏe nhưng không được ông BĐ_Thịnh chấp nhận. Ngày 05/10/2010, ông BĐ_Thịnh họp Phòng khám để nhằm xem lại và xác nhận những vấn đề của Phòng khám và bà không đồng ý với những kết quả của cuộc họp trên. Sau đó ông BĐ_Thịnh thông báo bằng miệng cho bà nghỉ việc ngay ngày 05/10/2010 và báo cho cô Trúc thanh toán tiền lương 3,5 ngày làm việc là 728.000 đồng (mức lương tính là 5.400.000 đồng/tháng) sau khi trừ các khoản nợ tổng cộng là 1.582.000 đồng (bao gồm tiền quỹ đen, tiền nợ tã chưa bàn giao, tiền phiếu khám bệnh bệnh nhân mua mà chưa khám-theo giấy nộp Tòa ngày 15/6/2012) bà còn thiếu lại 854.000 đồng (1.582.000 đồng -728.000 đồng= 854.000 đồng) và bà chưa trả khoản tiền này.


25/2012/LĐ-ST: Tranh chấp về tiền lương Sơ thẩm Lao động
  • 1918
  • 39

Tranh chấp về tiền lương

10-09-2012
TAND cấp huyện

Do việc chạy tàu khi chưa giám định xong hàng dẫn đến việc tranh chấp lô hàng giữa BĐ_Công ty cổ phần vận tải và thương mại Quân Linh và Công ty cổ phần xi măng Hà Tiên 1. Thời gian sau, Công ty đã giữ lương tháng 2/2011 của ông, ông có hỏi lý do thì Công ty trả lời là để thu xếp với Công ty cổ phần xi măng Hà Tiên 1 về lô hàng đang tranh chấp cho xong rồi thanh toán. Công ty trả nguyên lương tháng 3/2011, đến tháng 4/2011 Công ty lại giữ lương của ông với lý do chờ giải quyết tranh chấp, tháng 5 và tháng 6/2011, Công ty trả nguyên lương cho ông. Tháng 7, 8, 9 và tháng 10/2011, Công ty giữ lương của ông 10.000.000 đồng cũng với lý do chờ giải quyết tranh chấp lô hàng với Công ty cổ phần xi măng Hà Tiên 1.


12/2012/LĐ-ST: Tranh chấp việc thực hiện hợp đồng lao động Sơ thẩm Lao động
  • 1639
  • 22

Tranh chấp việc thực hiện hợp đồng lao động

11-09-2012
TAND cấp huyện

Ngày 30/6/2011 ông ký kết hợp đồng lao động (lái xe) với BĐ_Công ty cổ phần Tập đoàn Thịnh An (BĐ_Công ty Thịnh An). Sau thời gian ký kết hợp đồng lao động, công ty kiểm tra nghiệp vụ lái xe và học kỹ thuật chuyên nghành và làm việc. Trong khoảng thời gian trên bản thân ông liên tục xuất tiền trang trải các khoản chi phí để hoàn thành công việc. Ngày 06/8/2011 khi ông không còn khả năng để trang trải nên ông gửi đơn xin xem xét với lý do trong suốt thời gian trên ông đã tập trung công sức tiền của để thực hiện công việc nhưng không có thu nhập nên ông không còn khả năng chi tiêu trang trải. Ông liên tục làm đơn gửi BĐ_Công ty Thịnh An xin xem xét, đơn ngày 06/8/2011, ngày 17/8/2011, khiếu nại ngày 23/8/2011 nhưng vẫn không được phúc đáp xem xét và xử lý. Nay ông căn cứ vào hợp đồng lao động và phụ lục hợp đồng ký ngày 30/6/2011 và đơn xin xử lý hợp đồng lao động ngày 05/9/2011, ông khởi kiện BĐ_Công ty Thịnh An yêu cầu phía Công ty bồi hoàn cho ông những công sức, tiền của trong suốt thời gian trên


10/2012/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động) Sơ thẩm Lao động
  • 595
  • 18

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)

20-12-2012
TAND cấp huyện

Trong đơn khởi kiện và tại Toà, nguyên đơn có đại diện theo ủy quyền trình bày : ông NĐ_Trần Công Tú vào làm việc tại BĐ_Công ty TNHH Hàn Minh từ ngày 02/3/2011 với công việc là kỹ thuật xưởng, đến ngày 02/4/2011 BĐ_Công ty TNHH Hàn Minh có quyết định mức lương cho ông NĐ_Tú theo đó lương cơ bản là 3.900.000 đồng/một tháng, phụ cấp 5.400.000 đồng/tháng. Đến ngày 28/7/2011 BĐ_Công ty TNHH Hàn Minh có quyết định cho ông NĐ_Tú thôi việc tại Công ty với lý do : Công việc không phù hợp . Không đồng ý với việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của Công ty, nên ông NĐ_Tú làm đơn khởi kiện yêu cầu Toà giải quyết : Buộc BĐ_Công ty TNHH Hàn Minh phải hủy Quyết định cho thôi việc nêu trên, nhận ông NĐ_Trần Công Tú trở lại làm việc, công khai xin lỗi và bồi thường cho ông NĐ_Tú các khoản tiền gồm : 02 tháng lương + phụ cấp lương do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không đúng luật là 18.600.000 đồng,


56/2015/DS - ST: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 542
  • 5

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

12-03-2015
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải của ông NĐ_Đỗ Xuân Hưng, bà NĐ_Đoàn Thị Hà và bà Nguyễn Thị Kiều Trang là đại diện cho nguyên đơn trình bày: Ngày 20/11/1996, ông NĐ_Hưng, bà NĐ_Hà có làm hợp đồng mua bán nhà số 23 ST, phường 2, quận TB với ông BĐ_Nguyễn Văn Ngọc, bà BĐ_Trần Thị Ngọc Uyên với giá là 115 lượng vàng SJC, thời hạn bà BĐ_Uyên hoàn tất giấy tờ nhà để giao cho bà NĐ_Hà là ngày 01/5/1997. Thực hiện hợp đồng mua bán nhà, ông NĐ_Hưng, bà NĐ_Hà đã giao cho bà BĐ_Uyên 200.000.000đ tiền đặt cọc mua bán nhà và ngày 15/10/1996 giao thêm 50 lượng vàng SJC (bao gồm cả 200.000.000đ tiền đặt cọc trên); ngày 16/10/1996, ông NĐ_Hưng, bà NĐ_Hà giao thêm 10 lượng vàng SJC, tổng cộng là 60 lượng vàng SJC. Ngày 21/11/1996 bà BĐ_Uyên xác nhận đã nhận đủ số tiền bán nhà số 23 ST, phường 2, quận TB và bà BĐ_Uyên, ông BĐ_Ngọc đã giao nhà cho ông NĐ_Hưng, bà NĐ_Hà sử dụng nhà từ năm 1996 cho đến nay.


95/2015/DS–ST: Tranh chấp quyền sở hữu nhà Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 492
  • 4

Tranh chấp quyền sở hữu nhà

06-04-2015
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và lời trình bày của Nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Thu Hà thì: Năm 1999, bà NĐ_Hà có chuyển nhượng một lô đất tại số 471/9/13 PVB, phường 15, quận TB của ông Đỗ Thành Toán. Do thời điểm này, bà NĐ_Hà không có hộ khẩu tại Thành phố HCM nên có nhờ bà BĐ_Nguyễn Kim Sa là chị họ và ông BĐ_Phạm An Tài là chồng bà BĐ_Sa đứng tên trên hợp đồng chuyển nhượng đất. Nguồn gốc phần đất này là của ông Đào Văn Miên bán cho ông Đỗ Thành Toán nhưng chưa sang tên cho ông Toán nên khi làm hợp đồng thì ông Miên ký hợp đồng với bà BĐ_Sa theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 08/6/1999. Năm 1999, bà NĐ_Hà đăng ký kê khai nhà đất với Ủy ban nhân dân phường 15, quận TB và tiến hành xây dựng nhà cấp 4 để sử dụng cho đến nay. Năm 2006, bà NĐ_Hà có yêu cầu bà Lưu Thị Thanh Trúc làm dịch vụ hợp thức hóa căn nhà và LQ_Ủy ban nhân dân quận TB cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số H01059/27007 ngày 09/8/2006 cho ông BĐ_Phạm An Tài và bà BĐ_Nguyễn Kim Sa. Năm 2007, bà NĐ_Hà có nhờ ông BĐ_Tài, bà BĐ_Sa đứng tên vay Ngân hàng VP Bank – chi nhánh HH số tiền 260.000.000đ và thế chấp căn nhà số 471/9/13 PVB, phường 15, quận TB và bà NĐ_Hà là người trực tiếp trả số tiền này cho Ngân hàng.