cơ sở dữ liệu pháp lý

318/2016/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 757
  • 16

Ly hôn

06-04-2016
TAND cấp tỉnh

Bà và ông BĐ_Vo Anthony tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 4204 quyển số 16, ngày 29/12/2007 tại Sở tư pháp Thành phố HCM. Bà và ông BĐ_Vo Anthony kết hôn là do mai mối của người thân tại Hoa Kỳ. Năm 2007 ông BĐ_Vo Anthony trở về Mỹ sinh sống. Hai người chỉ liên lạc với nhau qua điện thoại chứ không có cuộc sống như vợ chồng. Do vậy, mâu thuẫn giữa bà và ông BĐ_Vo Anthony ngày càng trầm trọng không thể hòa giải được và đỉnh điểm là vào năm 2011 khi hồ sơ bảo lãnh của bà được hoàn tất , Lãnh sự quán Mỹ mời lên phỏng vấn theo diện đoàn tụ gia đình nhưng Tổng Lãnh sự quán Mỹ tại Việt Nam không liên lạc được với ông BĐ_Vo Anthony. Kể từ thời điểm đó cho đến nay bà và ông BĐ_Vo Anthony không còn liên lạc với nhau. Vì vậy, bà NĐ_Hương và ông BĐ_Vo Anthony đã quyết định ly hôn vì không còn tình cảm với nhau và mục đích hôn nhân không đạt được.


07/2016/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 464
  • 19

Đòi lại tài sản

04-01-2016
TAND cấp tỉnh

Theo đơn khởi kiện và những lời khai tại Tòa, nguyên đơn là bà NĐ_Tăng Thị Kim Loan trình bày: Ngày 20/7/2012, tôi và bà BĐ_Đan ký thoản thuận xác định bù trừ nghĩa vụ về tiền nợ của em tôi là LQ_Tăng Thị Kim Thủy như sau: 07 lượng vàng: 07 x 42.000.000 đồng = 294.000.000 đồng. 2.000 USD : 2000 x 21.000 đồng = 42.000.000 đồng. Tiền mặt : 50.000.000 đồng. Tổng cộng là : 386.000.000 đồng. Bù trừ hụi, bà BĐ_Đan còn thiếu tôi: 161.750.000 đồng. Tổng số tiền sau khi bù trừ: 224.250.000 đồng. Bà BĐ_Đan tự nguỵên bớt cho bà LQ_Thủy: 24.250.000 đồng. Số tiền tôi còn nợ bà BĐ_Đan: 200.000.000 đồng. Sau khi hai bên ký thỏa thuận, tôi đã trả ngay 100.000.000 đồng cho bà BĐ_Đan. Còn 100.000.000 đồng, do buôn bán gặp khó khăn nên chưa trả theo đúng thời hạn 03 tháng cho bà BĐ_Đan.


58/2016/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 3193
  • 140

Tranh chấp tiền đặt cọc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

11-01-2016
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn ông NĐ_Nguyễn Đăng Đăng trình bày: Ngày 03/11/2009, ông có thỏa thuận với ông BĐ_Trịnh Văn Tuấn để mua căn nhà thuộc một phần thửa 166, tờ bản đồ 31, tọa lạc tại khu phố 4, Phường TCH, Quận X, thành phố HCM với giá 1.740.000.000 đồng. Sau khi thỏa thuận, ông và ông BĐ_Tuấn đã lập tờ hợp đồng đặt cọc sang nhượng nhà đất với nội dung: Ngày 03/11/2009 ông NĐ_Đăng đặt cọc 100.000.000 đồng, hẹn ngày 04/11/2009, ông sẽ đưa tiếp 1.300.000.000 đồng. Số tiền còn lại sẽ giao sau 30 ngày khi hợp đồng được công chứng theo quy định pháp luật.


52/2016/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 1918
  • 42

Ly hôn

15-01-2016
TAND cấp tỉnh

Tại đơn khởi kiện nộp ngày 06/11/2014, bản tự khai ngày 03/12/2014, bà NĐ_Trần Thị Kim Thủy trình bày: Bà NĐ_Thủy và ông BĐ_Hei Kimhuns kết hôn hợp pháp và được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 29/03/2010, vào Sổ đăng ký kết hôn số 1137 quyển số 04 ngày 30/03/2010. Bà và ông BĐ_Hei Kimhuns đính hôn vào tháng 04/2009, sau 02 tuần lễ gặp gỡ, làm quen và tìm hiểu, đến tháng 03/2010 thì đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống chung tại Việt Nam được 02 tuần rồi ông BĐ_Hei Kimhuns trở về Mỹ. Đến tháng 01/2011 ông BĐ_Kimhuns về Việt Nam chữa bệnh và thăm vợ được 03 tuần rồi lại trở về Mỹ. Thời gian này, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Theo bà, nguyên nhân mâu thuẫn là do kết hôn vội vàng nên hai bên đã không tìm hiểu nhau kỹ, dẫn đến không hiểu nhau và chưa thực sự có tình cảm với nhau. Bắt đầu vợ chồng ít liên lạc với nhau và đến tháng 03/2011 thì chấm dứt liên lạc.


69/2016/HNPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 1883
  • 29

Ly hôn

23-01-2016
TAND cấp tỉnh

Sau khi kết hôn, vợ chồng ông bà chung sống hạnh phúc. Đến năm 2010, hai người chuyển về chung sống cùng gia đình ông BĐ_Hận ở Tây Ninh thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do không hợp nhau về tính tình, cách sống, cách cư xử đối với cha, mẹ và anh chị em nhà chồng. Sau đó vợ chồng bà chuyển xuống Sài Gòn sinh sống, làm ăn nhưng vợ chồng không còn hạnh phúc như trước, tình cảm vợ chồng bị rạn nứt và hay xảy ra xô xát nên từ tháng 05/2015 bà đã ra sống riêng. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn và để ổn định cuộc sống nên bà xin ly hôn với ông BĐ_Hận. Về con chung: Có 01 con chung tên Phạm Minh Phát, sinh ngày 24/11/2011, bà xin được trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu ông BĐ_Hận cấp dưỡng nuôi con. Hiện con đang sống với bà, bà NĐ_Bình đang làm Kế toán tại Công ty TNHH-TM-DV Thu Thiện – Nhà hàng ẩm thực 2 ở Quận 7 với mức lương hàng tháng là 7.200.000 đồng. Về tài sản chung và nợ chung: Bà NĐ_Bình khai không có nên không yêu cầu Tòa giải quyết.


181/2016/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 694
  • 40

Tranh chấp quyền sử dụng đất

26-01-2016
TAND cấp tỉnh

Theo đơn khởi kiện ngày 28/5/2008 và bản tự khai ngày 14/7/2008 đại diện ủy quyền của nguyên đơn – Ông Nguyễn Tâm trình bày: Nguồn gốc phần đất ông BĐ_Nguyễn Văn Hữu và bà BĐ_Nguyễn Thị Nhi cùng gia đình đang chiếm hữu, sử dụng là của ông Trần Văn Phú (chết năm 1977) và vợ là bà Lê Thị Hưu (chết năm 1994) có diện tích khoản 6.000m2 tọa lạc tại địa chỉ 2941/15 PTH, Phường 7, Quận X, Tp.HCM. Ông Phú và bà Hưu có 01 người con nuôi duy nhất là ông NĐ_Trần Văn Dương. Năm 1976 ông BĐ_Nguyễn Văn Hữu là cán bộ tập kết có mượn, ở nhờ trên phần đất này. Năm 1989 ông NĐ_Trần Văn Dương có bán cho ông BĐ_Hữu bằng giấy tay một phần ao khoảng 3.500m2, phần đất còn lại mà ông BĐ_Hữu và gia đình chiếm dụng ông NĐ_Dương đã nhiều lần yêu cầu ông BĐ_Hữu hoàn trả nhưng không thành. Sau đó ông BĐ_Hữu đã sang nhượng đất lại cho nhiều người.


182/2016/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 1387
  • 150

Tranh chấp tài sản sau ly hôn

26-01-2016
TAND cấp huyện

Nguyên đơn – Bà NĐ_Bùi Thị Dũng trình bày: Bà và ông BĐ_Nguyễn Văn Đương được mẹ chồng bà NĐ_Dũng để lại cho phần diện tích 2000m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 03533 QSDĐ/25.7.2000 ngày 25/7/2000 do Ủy ban nhân dân huyện HM cấp cho ông BĐ_Nguyễn Văn Đương, là tài sản chung. Đến năm 2004, bà NĐ_Dũng và ông BĐ_Đương thuận tình ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 167/QĐ.TTLH ngày 13/12/2004, về phần tài sản chung vợ chồng thì vợ chồng bà NĐ_Dũng không yêu cầu Tòa án giải quyết. Năm 2002, ông BĐ_Đương tự bán phần đất có diện tích khoảng 886m2 cho ông Bùi Thanh Danh với giá 150.000.000 đồng và có đưa bà NĐ_Dũng 100.000.000 đồng để lo cho các con. Đến năm 2003, ông BĐ_Đương tự mình tiếp tục bán 40m2, không chia tiền cho bà NĐ_Dũng. Đến năm 2004, ông BĐ_Đương lại tự mình bán 560m2 đất và không chia tiền cho bà NĐ_Dũng.