Nghị định số 70-CP ngày 12/06/1997 của Chính phủ Về án phí, lệ phí toà án (Văn bản hết hiệu lực)
- Số hiệu văn bản: 70-CP
- Loại văn bản: Nghị định
- Cơ quan ban hành: Chính phủ
- Ngày ban hành: 12-06-1997
- Ngày có hiệu lực: 27-06-1997
- Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực
- Ngày hết hiệu lực: 00/00/0000
- Ngôn ngữ:
- Định dạng văn bản hiện có:
Bản án sử dụng
- 09/2013/KDTM-GĐT (25-04-2013) Áp dụng:
- 25/2011/KDTM-PT (08-03-2011) Áp dụng:
- 31/2011/KDTM-PT (15-03-2011) Áp dụng: Điểm b, c Khoản 2 Điều 15; Khoản 2 Điều 18; Khoản 1 Điều 19
- 34/2011/KDTM-PT (23-03-2011) Áp dụng:
- 75/2015/DS-ST (18-03-2015) Áp dụng:
- 75/2015/DS-ST (19-03-2015) Áp dụng:
- 132/2014/DS-ST (07-04-2014) Áp dụng: Điều 7
390/2009/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1280
- 6
Bà NĐ_Nguyễn Thị Diễm Trinh trình bày: Mâu thuẫn giữa bà và ông BĐ_Huỳnh Công Hà phát sinh từ đầu năm 2009 cho đến nay, do vợ chồng bất đồng về quan Điểm cách sống thường xuyên gây gổ cãi vã. Mặt khác hai bên không tin tưởng nhau về mặt tình cảm. Nay tình cảm vợ chồng không còn bà yêu cầu được ly hôn với ông BĐ_Huỳnh Công Hà. - Về con chung: Bà xin được trực tiếp nuôi dưỡng 03 con Huỳnh Thị Diệu sinh ngày: 15/02/1997, Huỳnh Công Đại sinh ngày: 30/10/2005, Huỳnh Thị Diễm Thơ sinh ngày: 20/07/2008, không yêu cầu ông BĐ_Hà cấp dưỡng nuôi con. - Về tài sản chung và nợ chung: Bà và ông BĐ_Hà chung sống không có tài sản chung, cũng không thiếu nợ ai, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
512/2009/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 860
- 31
Bà và ông Tăng Trí Hùng là vợ chồng hợp pháp, có 01 con chung là trẻ Tăng Thành Đạt, sinh ngày: 12/01/2001, nhưng đã ly hôn theo bản án số 17/2008/DS-PT ngày 04/01/2008 của Tòa án nhân dân thành phố HCM đã có hiệu lực pháp luật. Theo nội dung bản án thì bà được quyền trực tiếp nuôi dưỡng trẻ Đạt và không yêu cầu ông Hùng có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Nhưng hiện nay trẻ Đạt ngày càng lớn, chi tiêu cho nhu cầu học tập, sinh hoạt ngày càng nhiều hơn nên bà yêu cầu ông Hùng có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi trẻ Đạt mỗi tháng 2.000.000đ (hai triệu đồng) cho đến khi trẻ trưởng thành 18 tuổi.
206/2009/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2361
- 63
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Trong đơn khởi kiện ngày 27/10/2008 của nguyên đơn chị NĐ_Tống Thi Thanh Tuyền, bản tự khai ngày 20/2/2009 của người đại diện hợp pháp của nguyên đơn anh Nguyễn Quang Minh trình bày: Vào năm 2003 bà NĐ_Tuyền chuyển nhượng của ông BĐ_Trần Văn Điền diện tích 10.903m2 đất, thửa Số 1977, 1978, 1979, 1981, 1982, 2042, 2043, 2093, 2094 - tờ bản đồ số 14 xã TP trước khi chuyển nhượng đất cho bà NĐ_Tuyền, ông BĐ_Điền đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2004 bà NĐ_Tuyền làm xong thủ tục chuyển quyền sử dụng đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích 10.903m2 đất.
217/2009/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 567
- 18
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Nguyên đơn anh NĐ_Đặng Văn Hoa đại diện luôn cho các người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan theo giấy ủy quyền, trình bày theo đơn khởi kiện và lời khai tại tòa: Ngày 21/3/2002, anh chuyển nhượng lại của ông BĐ_Bình và bà BĐ_Lương Thị Doan một phần đất thổ cư diện tích 220m2, ngang 10m giáp lộ xã, dài 22m, với giá tiền là 20.000.000 đồng. Thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đất, anh đã giao cho ông BĐ_Bình 14.000.000 đồng, số còn lại vào ngày 16/6/2004 anh đã giao trực tiếp cho ông BĐ_Bình 6.000.000 đồng, xem như anh đã thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán tiền cho ông BĐ_Bình / bà BĐ_Doan, anh cũng đã được nhận đất cất nhà ở từ tháng 3/2002 cho đến nay. Khi chuyển nhượng đất ông BĐ_Bình ghi giấy tay là sang nhượng đất thổ cư, lúc này anh cũng biết là diện tích đất của ông BĐ_Bình chưa được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, kể cả phần diện tích đất chuyển nhượng cho anh cũng vậy, đến ngày 24/12/2002 ông BĐ_Bình được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
3237/2009/HNST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 484
- 10
Tại đơn ly hôn đề ngày 10/11/2008, đơn xin vắng mặt đề ngày 26/3/2009 nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim Hương khai: Năm 1991 bà Hương và ông Nguyễn Long Châu tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường 5, quận PN, hiện có 01 con chung là Nguyễn Long Hải (17/8/1991). Quá trình sống chung giữa vợ chồng hạnh phúc thời gian đầu, sau đó có mâu thuẫn do không phù hợp về tính tình, bất đồng về quan Điểm sống, năm 1992 bà và con định cư tại Hoa Kỳ, vợ chồng không còn liên lạc với nhau. Qua thời gian xa cách tình cảm không còn, hiện bà và ông Châu đều có gia đình riêng, nên bà yêu cầu được ly hôn. Về con, bà xin nuôi và không yêu cầu cấp dưỡng con, tài sản chung không có. Vì hoàn cảnh gia đình không có điều kiện về Việt Nam nên xin xét xử vắng mặt
3294/2009/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1404
- 20
Theo đơn khởi kiện đề ngày 11/3/2005 (Bút lục số 35; 36) của ông Trần Trạch Quyền trình bày thì nội dung vụ án như sau: Ông là con nuôi của bà Huỳnh Bửu Trân. Bà Trân có chồng là ông Đặng Hạnh. Bà Trân chết năm 2000; ông Hạnh xuất cảnh sang năm 1979 và chết tại Malaysia ngày 02/5/1980. Ông Hạnh có một người con riêng là ông Đặng Giọc Hy, hiện đang cư trú tại Mỹ. Tầng trệt của căn nhà số 114/3B NNT, phường 13, quận X là tài sản của bà Trân, ông Hạnh sang lại của ông Tạ Khai Xương, bà Ngô Thị Đoàn với giá tiền 350.000 đồng (ba trăm năm mươi ngàn đồng) vào năm 1969. Hàng tháng đóng tiền thuê đất 2.700 đồng (hai ngàn bảy trăm đồng) đến năm 1985 thì ông Xương không thu tiền đất nữa nên bà Trân tiếp tục đóng thuế đất cho Nhà Nước. Trong quá trình sử dụng nhà, ông Hạnh, bà Trân sửa chữa nhà, xây hồ chứa nước, làm nhà vệ sinh và đúc gác giả, lót gạch nền nhà.
3294/2009/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1157
- 20
NHẬN THẤY: Theo đơn khởi kiện đề ngày 11/3/2005 (Bút lục số 35; 36) của ông Trần Trạch Quyền trình bày thì nội dung vụ án như sau: Ông là con nuôi của bà Huỳnh Bửu Trân. Bà Trân có chồng là ông Đặng Hạnh. Bà Trân chết năm 2000; ông Hạnh xuất cảnh sang năm 1979 và chết tại Malaysia ngày 02/5/1980. Ông Hạnh có một người con riêng là ông Đặng Giọc Hy, hiện đang cư trú tại Mỹ. Tầng trệt của căn nhà số 114/3B NNT, phường 13, quận X là tài sản của bà Trân, ông Hạnh sang lại của ông Tạ Khai Xương, bà Ngô Thị Đoàn với giá tiền 350.000 đồng (ba trăm năm mươi ngàn đồng) vào năm 1969. Hàng tháng đóng tiền thuê đất 2.700 đồng (hai ngàn bảy trăm đồng) đến năm 1985 thì ông Xương không thu tiền đất nữa nên bà Trân tiếp tục đóng thuế đất cho Nhà Nước. Trong quá trình sử dụng nhà, ông Hạnh, bà Trân sửa chữa nhà, xây hồ chứa nước, làm nhà vệ sinh và đúc gác giả, lót gạch nền nhà.