Nghị quyết số 45/2005/NQ-QH11 ngày 14/06/2005 của Quốc hội Về việc thi hành Bộ luật Dân sự (Văn bản hết hiệu lực)
- Số hiệu văn bản: 45/2005/NQ-QH11
- Loại văn bản: Nghị quyết
- Cơ quan ban hành: Quốc hội
- Ngày ban hành: 14-06-2005
- Ngày có hiệu lực: 16-09-2005
- Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực
- Ngày hết hiệu lực: 00/00/0000
- Ngôn ngữ:
- Định dạng văn bản hiện có:
Bản án sử dụng
- N/A (25-05-2007) Áp dụng: Điểm b Mục 1
- 06/2007/KDTM-GĐT (15-08-2007) Áp dụng:
- 06/2007/KDTM-GĐT (15-08-2007) Áp dụng:
- 13/2009/KDTM-GĐT (27-05-2009) Áp dụng: Mục 2
- 114/2010/DS-ST (19-08-2010) Áp dụng: Điều 1
- 15/2015/DS-ST: Tranh chấp thừa kế (06-01-2015) Áp dụng:
- 290/2014/DS-ST: Tranh chấp thừa kế (28-08-2014) Áp dụng:
13/2011/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 585
- 1
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Trong đơn khởi kiện, bản khai và biên bản hòa giải bà NĐ_Nguyễn Thị Bé Chi là nguyên đơn trình bày: Căn nhà 14/8B NĐC, phường ĐK, quận X có nguồn gốc của vơ chồng ông Nhiêu Chiêu và bà Nguyễn Thị Mai. Trước giải phóng ông Chiêu và bà Mai giao cho bà Tư ( không rõ họ tên và địa chỉ) quản lý. Sau đó bà Tư bán một phần đất cho bà LQ_Nguyễn Thị Tân. Bà LQ_Tân tự xây nhà trên đất và bán lại cho bà Nguyễn Thị Liễu năm 1974, tất cả đều mua baùn bằng giấy tay và bị thất lạc do chiến tranh. Naêm 1975, Baø Lieu là mẹ của bà giao toàn bộ căn nhà cho bà. Bà và chồng là ông LQ_Sinh Tấn Tài cùng hai con là LQ_Sơn Nguyễn Luật Khang và LQ_Sơn Thụy Hòang Vũ cùng ở căn nhà này.
21/2011/DS-ST: Đòi lại nhà cho ở nhờ Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 657
- 5
Theo đại diện nguyên đơn là bà Ngô Thị Hoàng Anh trình bày :Tháng 05/2005 bà NĐ_Văn Thị An có cho vợ chồng ông BĐ_Nguyễn Văn Tình, bà BĐ_Đoàn Tuyết Vy vào ở nhờ tại nhà 523 lô D căn nhỏ chung cư CG quận X (là nhà bà thuê của Công ty Quản lý nhà quận X từ năm 2007 đến nay) mà không làm giấy tờ gì; khi vào ở bà BĐ_Vy ông BĐ_Tình có nói mỗi tháng sẽ gửi cho bà 500.000đ tiền nhà, chịu trách nhiệm trả toàn bộ tiền điện nước trong nhà, bà BĐ_Vy có đưa cho bà 20.000.000đ tiền thế chân thuê nhà ( khi đưa tiền cũng không làm giấy tờ gì và không có ai chứng kiến). Bà đã dùng số tiền này mua 01 lượng 02 chỉ 05 ly vàng 9999 hết 10.800.000đ . Thời gian sau đó vợ chồng BĐ_Đoàn Tuyết Vy và ông BĐ_Tình làm ăn thua lỗ đã mượn số vàng trên của bà. Tháng 3/2006, bà yêu cầu vợ chồng BĐ_Đoàn Tuyết Vyvà ông BĐ_Tình trả lại số vàng đã mượn nhưng cả hai không trả được nên bà đã tự cấn trừ vào số tiền 20.000.000đ đưa trước, còn lại 9.200.000đ thì trừ vào tiền nhà vì từ lúc mượn vàng đến giờ không đóng tiền nhà.
1502/2008/KDTM-PT: Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản Phúc thẩm Kinh doanh thương mại
- 788
- 9
Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn NĐ_Tổng công ty Lý Sơn ngày 04/6/2008 và trình bày của ông Nguyễn Trọng Minh đại diện NĐ_Tổng công ty Lý Sơn cùng đại diện cho LQ_Công ty cổ phần đầu tư xây đựng phát triển nhà Hoa My là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thì theo hợp đồng thuê sạp chợ BP lập ngày 31/08/2001 (Hợp đồng số 305/HĐTS-/2001) thì ông BĐ_Phạm Quốc Đăng Khiêm có thuê của Công ty xây dựng và phát triển kinh tế quận S (nay là LQ_Công ty cổ phần đầu tư Biên Hạ) sạp số 6 mã số C1 chợ BP, phường 10 quận S diện tích 3m2 để kinh doanh mùng, mền chiếu, gối, thời hạn thuê là 5 năm tính từ ngày giao sạp chợ (22/8/2001), trị giá hợp đồng là 27.775.000 đồng/5 năm. Ông BĐ_Khiêm có vi phạm về thời hạn thanh toán tiền, nhưng đã thanh toán theo phương thức trả góp là 31.571.100 đồng xong. Sau khi ký kết hợp đồng nêu trên, ông BĐ_Khiêm để sạp cho bà LQ_Nguyễn Thị Ngân là mẹ ruột ông kinh doanh, hợp đồng đã mãn từ ngày 22/8/2006, Công ty xây dựng và phát triển kinh tế quận S đã nhiều lần nhắc nhở nhưng ông BĐ_Khiêm không thanh lý hợp đồng mà vẫn còn kinh doanh tại đây và không thanh toán tiền thuê sạp.