Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/08/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Về việc hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình
- Số hiệu văn bản: 02/2004/NQ-HĐTP
- Loại văn bản: Nghị quyết
- Cơ quan ban hành: Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
- Ngày ban hành: 10-08-2004
- Ngày có hiệu lực: 21-09-2004
- Tình trạng hiệu lực: Đang có hiệu lực
- Thời gian duy trì hiệu lực: 7367 ngày (20 năm 2 tháng 7 ngày)
- Ngôn ngữ:
- Định dạng văn bản hiện có:
Bản án sử dụng
- 08/2007/DS-ST (07-02-2007) Áp dụng: Điểm 2.4 Điều 2 phần I; Điểm 1.3 Điều 1 phần II
- 08/2007/DS-ST (07-02-2007) Áp dụng: Điểm 2.4 Điều 2 phần I; Điểm 1.3 Điều 1 phần II
- 916/2007/DS-ST (05-06-2007) Áp dụng: Mục 2.4 Phần I
- 916/2007/DS-ST (05-06-2007) Áp dụng: Mục 2.4 Phần I
- 04/2009/DSPT (07-01-2009) Áp dụng:
- 71/2006/DS-PT (30-05-2006) Áp dụng:
- 42/2006/DS-PT (21-12-2006) Áp dụng:
36/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 674
- 11
Căn nhà số 22 phố HB trên thửa đất số 299, tờ bản đồ số 5, khu C, bằng khoán điền thổ số 538 Nhà Thờ đứng tên cố Quách Thị Đoan (em của cố Trang) 1/2 nhà và các cụ Bê, cụ Hoa, cụ Trịnh Đình Huyền (chồng cụ Hoà) đứng tên 1/2 nhà còn lại. Gia đình cụ Hoa và gia đình cụ Huyền di cư vào Nam trước năm 1954. Năm 1953, cố Đoan chuyển đến ở tại phố Lương Văn Can, để cho vợ chồng cụ Bê cùng anh em bà NĐ_Hương quản lý toàn bộ nhà đất tại số 22 HB.
213/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1197
- 39
09/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2110
- 31
Khi cụ Trương Công Nghế và cụ Đỗ Thị Hiển còn sống đã cho bố anh là ông Trương Công Chế nhà cấp 4 trên diện tích 94m2. Năm 1993 ông Chế chết, cụ Nghế, cụ Hiển nói với mọi người là cho anh nhà đất này. Sau khi cụ Nghế, cụ Hiển mất, anh chưa kịp làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất nên ngày 26/11/2001 các thừa kế của cụ Nghế, cụ Hiển là bà BĐ_Trương Thị My, ông Trương Quang Tiến, bà BĐ_Trương Thị Hà, bà Trương Thị Hòa đã họp để phân chia đất thổ cư do cụ Nghế, cụ Hiển đê lại theo nguyện vọng của các cụ là nhà đất trên diện tích 94m2 thì giao cho anh NĐ_Trương Quang Khang, nhà đất trên diện tích 147,6m2 thì giao cho ông Trương Quang Tiến.
28/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 273
- 7
Tại đơn khởi kiện ngày 21/3/2006 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà NĐ_Trần Thị Kim Hân trình bày: Cha mẹ của bà là cụ Trần Văn Hoà và cụ Phan Thị Hoa có 03 người con chung là bà LQ_Trần Thị Mai, ông LQ_Trần Minh Bình (ông LQ_Bình hiện sống tại Mỹ, có 02 người con là anh LQ_Trần Minh Chiến, anh BĐ_Trần Minh Hà) và bà. Sinh thời hai cụ tạo lập được khối tài sản bao gồm: 4.855m2 đất thổ vườn và 5.200m2 đất ruộng tại xã PH, huyện LH, tỉnh VL. Cụ Hoà chết năm 1992, cụ Hoa chết 2004, hai cụ đều không để lại di chúc. Trước khi chết vào năm 1986, cụ Hòa đã phân chia cho 03 người con, mỗi người 1.000m2 đất vườn, chiều dài đất là 100 m, ngang 10m giáp với đường đi, phần còn lại để làm hương hoả; bà đã cho con trai của bà là anh LQ_Huỳnh Bá Phú xây dựng nhà ở từ năm 1989 trên phần đất được chia.
118/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1600
- 38
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Nguyên đơn ông NĐ_Linh trình bày: vào năm 1989-1990 ông có chuyển nhượng cho ông BĐ_Mã 3 công đất ruộng tầm, tọa lạc tại ấp TA 1, xã TT, huyện TH, tỉnh KG 3 công X 2 chỉ vàng 24k = 6 chỉ vàng 24k. Năm 1990 ông chuyển nhượng thêm 4,5 công tầm 3m với giá 18 chi vàng 24k (4,5 X 4 chỉ vàng = 24k). Khi chuyển nhượng không có làm giấy tờ gì nhưng ông có hứa khi nào ông BĐ_Mã trả nợ cho ông, ông sè cho chuộc lại 02 công ở sau hè nhà gần đất thổ cư trong 4,5 công (phần này có làm giấy thỏa thuận cho chuộc lại đất). Sau khi chuyến nhượng thì ông canh tác từ năm 1989-1990 đến năm 2003-2004 thì ông cho anh Nguyễn Văn Trường thuê 19,5 công đất, trong đó có 7,5 công ông chuyển nhượng của ông BĐ_Mã, ông cho thuê với giá 1 công = 20 giạ lúa/năm. Đến năm 2005 thì ông BĐ_Mã vào canh tác phần đất 4,5 công tầm 03m đến nay là 2 năm. Phần đất 7,5 công hiện nay ông BĐ_Mã đang đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất. Phần này năm trong 03 thửa, ông không xác định thửa nhưng ông xác định Phòng tài nguyên môi trường huyện TH đo đạc ngày 12-7-2007 là đúng vị trí đất ông chuyển nhượng của ông BĐ_Mã.
540/2008/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1614
- 43
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Theo nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Hiền có ông Châu Kim Luân đại diện trình bày: Ngày 24-4-1997, ông BĐ_Phạm Văn Rá có làm hợp dồng viết tay sang nhượng cho bà 2033m2 đất ruộng tại thửa số 13 tờ bản đồ số 4 thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng dất số 477/QSDD I do ủy ban huyện Thủ Đức cấp cho ông BĐ_Rá ngày 22-2-1993, với giá 10 lượng vàng 24K (hai bôn đã giao nhận vàng xong). Bà NĐ_Hiền đã thực hiện nghĩa vụ đóng thuế hàng năm, năm 1999 khi có chỉ thị đăng ký kê khai nhà đất, ông BĐ_Rá không chịu sang tên quyền sử dụng đất cho bà.
406/2016/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 833
- 36
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Theo đơn khởi kiện và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn – ông NĐ_Trần Văn Nên có bà LQ_Trần Thị Kim Linh đại diện trình bày: Vào ngày 09/02/2003, ông NĐ_Trần Văn Nên có làm giấy tay chuyển nhượng cho bà BĐ_Nguyễn Thị Vân một lô đất có diện tích là 2.500 m² tọa lạc tại xã BĐ, huyện HM, Thành phố HCM (lúc này đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) với giá thỏa thuận 1.000.000đồng/m², tổng trị giá lô đất là 2.500.000.000đồng. Trên đất có hiện trạng một căn nhà cấp bốn của bà LQ_Võ Thị Chi xây cất trên phần đất thuộc quyền sử dụng của ông NĐ_Trần Văn Nên (nhà chưa được công nhận quyền sở hữu nhà ở), khi chuyển nhượng đất cho bà BĐ_Vân thì ông NĐ_Nên đã hỗ trợ cho bà LQ_Chi số tiền 50.000.000đồng để bà LQ_Chi di dời đi nơi khác sinh sống.