cơ sở dữ liệu pháp lý

15/2013/KDTM-ST: Tranh chấp hợp đồng tư vấn bảo lãnh và phát hành chứng khoán

  • Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
  • Vụ việc, Vụ án: Tranh chấp hợp đồng tư vấn bảo lãnh và phát hành chứng khoáng
  • Loại vụ việc: Sơ thẩm
  • Cơ quan xét xử: TAND cấp huyện
  • Số hiệu: 15/2013/KDTM-ST
  • Ngày tuyên án: 30-12-2013
  • Ngày thụ lý: 13/07/2012
  • Kết quả vụ việc: Chấp nhận 1 phần
  • Link thay thếhttps://caselaw.vn/ban-an/IJm4vAO7Ro
  • Lưu ýTại phiên tòa phúc thẩm diễn ra ngày 03/6/2014, Hội đồng xét xử đã có kết luận sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu khởi kiện của GMC về việc yêu cầu SHS phải mua lại 50% số lượng cổ phần mà GMC không bán hết cho cổ đông hiện hữu là 3.523.842 cổ phiếu x 12.000 đồng/1 cổ phiếu.
  • ----------------------------------------------------------

Trong ngày 23/12/2013 và ngày 30/12/2013, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 24/2012/TLST-KDTM ngày 13 tháng 7 năm 2012 , theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/QĐXX ngày 04 tháng 12 năm 2013 về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ tư vấn và bảo lãnh phát hành chứng khoán”, giữa:

Nguyên đơn:

Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng (GMC)

Trụ sở: khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang.

Do ông Nguyễn Cương - Chủ tịch HĐQT làm đại diện theo pháp luật.

Đại diện theo ủy quyền ông Phạm Nguyên Hoàng - Cán bộ Công ty (theo giấy ủy quyền lập ngày 21/8/2012).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn:

Luật sư Vũ Thị Kim Ngọc - Văn phòng Luật sư Hưng Giang - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng.

Bị đơn:

Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội (SHS).

Trụ sở: tầng 1, 3 trung tâm Hội nghị Công đoàn, số 1 phố Yết Kiêu, Hoàn kiếm, Hà Nội.

Do ông Hoàng Đình Lợi - Tổng giám đốc làm đại diện theo pháp luật.

Đại diện theo ủy quyền ông Vũ Đức Tiến - Phó Tổng giám đốc kiêm Chánh văn

phòng Hội đồng quản trị (theo giấy ủy quyền lập ngày 27/7/2012).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn:

Luật sư Phạm Quang Hòa - Văn phòng luật sư Nguyễn Huy Thiệp và cộng sự - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội.

Người làm chứng: Ông Nguyễn Quang Vinh.

Trú tại: số 22 Mạc Đĩnh Chi, phường Trúc Bạch, Ba Đình, Hà Nội.

Nguyên Tổng giám đốc Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội.

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện của Công ty cổ phần ô tô giải phóng (GMC) ngày 19/6/2012; các lời khai của nguyên đơn và Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn đã trình bày tại Tòa án có nội dung như sau:

Ngày 15/6/2010 Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng (gọi tắt là CMC) và Công ty chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội (gọi tắt là SHS), ký Hợp đồng dịch vụ tư vấn và bảo lãnh phát hành cổ phiếu số 273/2010/HĐTV & BL - SHS. Theo đó:

Công ty SHS nhận trách nhiệm thực hiện các công việc liên quan đến tư vấn tài chính và phát hành cổ phiếu phù hợp với tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp; nhận bảo lãnh phát hành cổ phièu phát hành thêm của Doanh nghiệp.

Phương thức bảo lãnh: mua toàn bộ số cổ phiếu phát hành còn lại chưa được phân phối hết sau khi thực hiện đầy đủ các bước chào bán cần thiết theo phương thức phát hành.

Việc bảo lãnh phát hành phải được hai bên thống nhất, ký kết thành từng Hợp đồng cam kết riêng, với hình thức và thẩm quyền ký tương ứng với Hợp đồng. Nếu có mâu thuẫn hoặc cách hiểu trái ngược giữa các bản Hợp đồng cam kết riêng với Hợp đồng thì áp dụng theo Hợp đồng cam kết ký sau”.

Trên cơ sở đó, ngày 04/10/2010 Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng và Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội, ký “Cam kết bảo lãnh" phát hành cổ phiếu của Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng. Cam kết có nội dung:

Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội nhận bảo lãnh phát hành cổ phiếu theo phương thức - bên nhận bảo lãnh cam kết mua toàn bộ số cổ phần chào bán theo phương án phát hành và kết thúc thời hạn chào bán theo quy định của pháp luật; với giá 12.000/cổ phần.

Thời hạn phân phối: Trong vòng 90 ngày kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đăng ký phát hành do Uỷ Ban chứng khoán nhà nước cấp.

Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày hết hạn thu tiền của cổ đông hiện hữu, Công ty chứng khoán Sài Gòn - Hà nội sẽ thanh toán cho Công ty cổ phần ô tô Giãi Phóng đầy đủ số tiền mua cổ phần bảo lãnh mà Công ty SHS được hưởng theo Hợp đồng tư vấn bảo lãnh mà hai bên đã ký kết và một số điều khoản khác.

Quá trình thực hiện cam kết:

Dựa trên kết quả tư vấn của Công ty SHS - theo Hợp đồng dịch vụ tư vấn số 273/HĐTV ngày 15/6/2010 Công ty GMC được ủy Ban chứng khoán nhà nước cấp Giấy chứng nhận chào bán cổ phiếu ra công chúng số 720/UBNCK GCN ngày 29/10/2010. Chứng nhận rằng:

Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng được đăng ký chào bán ra công chúng 9.013.945 cổ phiếu; trong đó 7.211.047 cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu; 1.802.898 cổ phiếu cho đối tác chiến lược.

Thời hạn phân phối: 90 ngày (kể từ ngày cấp giấy chứng nhận). Tổ chức tư vấn phát hành: Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội.

Trên cơ sở giấy chứng nhận chào bán cổ phần này, thực hiện cam kết bảo lãnh phát hành cổ phiếu giữa Công ty GMC và Công ty SHS, ngày 04/10/2010: Công ty SHS đã tiến hành chào bán cổ phần của Công ty GMC, với đầy đủ các bước chào bán theo phương thức phát hành.

Tuy nhiên, hết thời hạn phân phối theo giấy chứng nhận số 720/UBNCK-GCN ngày 29/10/2010 (90 ngày và thời gian gia hạn giấy chứng nhận chào bán cổ phiếu tại quyết định số 1112/QĐ-UBNCK ngày 27/12/2010 (30 ngày) - đến hết ngày 29/02/2011 phải hoàn thành việc phân phối cổ phiếu. Nhưng kết thúc đợt chào bán, số cổ phiếu được bán cho cổ đông hiện hữu chỉ có 163.362 cổ phiếu.

Như vậy, số cổ phiếu chào bán hiện hữu còn lại không được phân phối hết là 7.047.685 cổ phiếu.

Căn cứ, điều 2 - “Cam kết bảo lãnh” ngày 04/10/2010 giữa Công ty GMC và Công ty SHS có nghĩa vụ “mua toàn bộ số cổ phần chào bán cho cổ đông hiện hữu còn lại không phân phối hết với mức giá 12.000/1 cổ phần”.

Công ty GMC đã rất nhiều lần trực tiếp và bằng văn bản yêu cầu Công ty SHS thực hiện nghĩa vụ theo điều 2 - Cam kết bảo lãnh ngày 04/10/2010. Tuy nhiên, đến thời điểm này Công ty SHS không thực hiện.

Thực hiện quyền của mình theo cam kết, GMC đã có văn bản đề nghị ủy ban chứng khoán Nhà nước can thiệp, đưa ra hướng giải quyết vụ việc nêu trên, ngày 02/08/2011 UBCK nhà nước có công văn số 335/UBCK-TT cho rằng GMC cần tiến hành giải quyết tranh chấp với Công ty SHS tại Tòa án theo Hợp đồng và cam kết bảo lãnh ký kết giữa hai bên.

Do vậy, căn cứ điều 29, 30, 35, 36 - BLTTDS, Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng kính đề nghị Tòa án thụ lý, giải quyết vụ việc theo trình tự thủ tục giải quyết vụ án kinh doanh thương mại. Buộc Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội thực hiện phần nghĩa vụ theo điều 2 - Cam kết bảo lãnh ngày 04/10/2010 giữa Công ty SHS và Công ty GMC, cụ thể:

1/ Công ty SHS có trách nhiệm phải mua toàn bộ số cổ phần chào bán cho có đóng hiện hữu còn lại không phân phối hết. Với mức giá 12.000/1 cổ phần. Tuy nhiên, với thiện chí chia sẻ khó khăn do ảnh hưởng khủng hoảng thị trường; Vì quan hệ hợp tác thân thiện lâu dài giữa hai bên. Bằng đơn khởi kiện này Công ty GMC yêu cầu Công ty SHS thực hiện 50% trách nhiệm của mình: mua 3.523.842 cổ phiếu x 12.000/1 cổ phiếu = 42.861.100.000 (bốn mươi hai tỷ tám trăm sáu mươi mốt triệu một trăm đồng).

2/ Yêu cầu Công ty SHS có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại do lỗi vi phạm cam kết – Công ty SHS đã đẩy Công ty GMC vào tình trạng ngừng trệ sản xuất, gia tăng nợ lãi ngân hàng..., gây thiệt hại nghiêm trọng cho Công ty GMC.

Ngày 07/5/2013 GMC có đơn xin rút yêu cầu SHS bồi thường thiệt hại mà chỉ yêu cầu SHS phải mua lại 50% số cổ phần mà GMC chưa bán hết là 3.523.842 cổ phiếu x 12.000/1 cổ phiếu = 42.861.100.000 (bốn mươi hai tỷ tám trăm sáu mươi mốt triệu một trăm đồng).

Tại phiên tòa: GMC và luật sư của GMC vẫn giữ nguyên yêu cầu nêu trên.

Ý kiến của công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội (SHS) và Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn:

Ngày 15/06/2010, Công ty SHS và Công ty GMC ký kết Hợp đồng dịch vụ tư vấn và Bảo lãnh phát hành cổ phiếu số 273/2010/HĐ7V&BL-SHS (Hợp đồng). Ngày 04/10/2010, Công ty SHS và Công ty GMC tiếp tục ký Cam kết bảo lãnh phát hành. Theo hai văn bản này, SHS sẽ tư vấn GMC thực hiện phát hành cổ phiếu, đồng thời SHS bảo lãnh phát hành cổ phiếu của GMC với nội dung: SHS sẽ mua toàn bộ số cổ phiếu không phân phối hết cho cổ đông hiện hữu của GMC trong đợt phát hành này.

Ngày 29/10/2010, GMC được ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp Giấy chứng nhận đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng số: 720/UBCKNN-GCN. Giấy chứng nhận này có hiệu lực đến hết tháng 01/2011, sau đó được gia hạn đến hết ngày 28/02/2011.

Đầu tháng 03/2011, CMC yêu cầu SHS thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, tuy nhién, đến thời điểm này đã hết hiệu lực của Giấy chứng nhận đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng (kể cả thời hạn được phép gia hạn hiệu lực theo quy định). Do vây, SHS không có căn cứ pháp lý để thực hiện yêu cầu của GMC.

Ngày 19/06/2012, GMC khởi kiện SHS tại Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm yêu cầu SHS phải mua lại 50% số cổ phần mà GMC không bán hết cho cổ đông hiện hữu là 3.523.842 cổ phiếu x 12.000/1 cổ phiếu = 42.861.100.000 (bốn mươi hai tỷ tám trăm sáu mươi mốt triệu một trăm đồng).

Theo các tài liệu có trong hồ sơ của tòa án , SHS trình bày quan điểm về yêu cầu khởi kiện của GMC là SHS không thể thực hiện cam kết bảo lãnh mà hai bên đã ký ngày 04/10/2010 vì thời gian hết hạn phát hành chứng khoán của GMC là ngày 28/02/2011 nhưng đến ngày 03/3/2011 thì GMC mới yêu cầu SHS mua lại số cổ phần chưa bán hết cho cổ đông hiện hữu và cho rằng ông Nguyễn Quang Vinh ký hợp đồng tư vấn bảo lãnh phát hành chứng khoán cũng như cam kết bảo lãnh với GMC là vượt quá thẩm quyền. Ngoài ra SHS còn đưa ra yêu cầu phản tố đề nghị GMC phải thanh toán 72.000.000đ (bảy mươi hai triệu đồng) phí tư vấn theo hợp đồng tư vấn bảo lãnh phát hành chứng khoán mà hai bên đã ký kết.

Tại phiên tòa: SHS thừa nhận ông Nguyễn Quang Vinh - Tổng giám đốc công ty SHS ký hợp đồng tư vấn bảo lãnh phát hành chứng khoán với ông Nguyễn Cương - Tổng giám đốc Công ty GMC là đúng thẩm quyền. Hai bên có ký hợp đồng tư vấn và bảo lãnh phát hành chứng khoán và cam kết bảo lãnh như GMC trình bày. Lý do SHS không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của GMC vì SHS cho rằng GMC yêu cầu SHS phải mua lại cổ phiếu không bán hết cho cổ đông hiện hữu ngoài thời hạn GMC được phát hành cổ phiếu theo giấy phép phát hành cổ phiếu mà UBCK Nhà nước cấp cho GMC. SHS đề nghị không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của GMC.

Công ty SHS có ý kiến về khoản tiền dich vụ tư vấn mà công ty GMC chưa thanh toán nốt cho công ty SHS hai bên sẽ tự giải quyết, nếu không giải quyết được sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.

Tại phiên tòa, ông Nguyễn Quang Vinh - người làm chứng vắng mặt. Ông có lời khai thể hiện trong hồ sơ như sau:

Tháng 6/2010 giữa GMC và SHS có ký Hợp đồng dịch vụ tư vấn và bảo lãnh phát hành cổ phiếu, tháng 10/2010 hai bên ký Cam kết bảo lãnh phát hành cổ phiếu. Sau khi xem xét tôi thấy hợp đồng chưa có dấu hiệu vô hiệu nhưng Cam kết bảo lãnh phát hành cổ phiếu chúng tôi thấy đại diện cùa GMC ký không đúng thẩm quyền theo quy định. Lý do là theo quy định mẫu Cam kết bảo lãnh của UBCK Nhà nước thì thẩm quyền ký cam kết phải là người đại diện theo pháp luật nhưng ông Nguyễn Cương ký cam kết với chức danh Tổng giám đốc, trong khi điều lệ của GMC thì người đại diện theo pháp luật là Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Đối với hợp đồng tư vấn dịch vụ tư vấn bảo lãnh và phát hành cổ phiếu thì SHS đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo hợp đồng, cho đến nay GMC mới tạm ứng 60.000.000đ tiền phí, tổng phí hợp đồng tư vấn là 132.000.000đ (gồm cả VAT). Nay SHS có quyền yêu cầu GMC phải thanh toán nốt số tiền phí còn lại. Về phí bảo lãnh phát hành cổ phiếu thì do SHS chưa thực hiện công việc này nên không phát sinh phí.

Khi phát hành cổ phiếu, GMC phải có nghĩa vụ theo dõi tình hình và kết quả thực hiện quyền mua cổ phiếu của cổ đông hiện hữu. GMC phải có nghĩa vụ thông háo kết quả chào bán cổ phiếu cho bên bảo lãnh phát hành. Phía GMC có nghĩa vụ cung cấp các thông tin cần thiết để SHS thực hiện các nghĩa vụ của mình theo cam kết. SHS không có nghĩa vụ phải phối hợp với GMC để nắm bắt thông tin về kết quả chào bán cổ phiếu. Chỉ có hai đơn vị là tổ chức phát hành (GMC) và Trung tâm lưu ký chứng khoán mới có được thông tin về kết quả việc chào bán cho cổ đông hiện hữu, Vì vậy trong thời hạn của giấy phép thì bên GMC phải có nghĩa vụ thông báo cho SHS về nghĩa vụ bảo lãnh (nếu có) theo cam kết.

Thòi điểm thực hiện việc bảo lãnh là khi tổ chức phát hành thông báo về việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho bên bảo lãnh, tức là thông báo số lượng cổ phiếu chưa chào bán hết cho cổ đông hiện hữu mà tổ chức bảo lãnh phải mua. Tuy nhiên thời hạn bảo lãnh phải nằm trong thời hạn có hiệu lực của giấy phép phát hành do UBCK Nhà nước cấp.

Trong thực tế GMC thông báo nghĩa vụ bảo lãnh cho SHS theo công văn số 03/2011/CV GMC ghi ngày 03/3/2011 (SHS nhận được công văn này vào ngày 07/3/2011), trong khi hiệu lực cuối cùng của giấy phép sau khi đã được gia hạn là ngày 20/02/2011. Như vậy đã hết thời gian để SHS thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

Lý do SHS không thực hiện việc bảo lãnh cổ phiếu là vì Giấy phép chào bán chứng khoán được cấp đã hết thời hạn.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm:

Về thủ tục tố tụng: Toà án thụ lý và giải quyết vụ án Tranh chấp Hợp đồng dịch vụ tư vấn bảo lãnh phát hành chứng khoán là đúng thẩm quyền. Quá trình tiến hành tố tụng, Thẩm phán, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng trình tự tố tụng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên vụ án còn vi phạm thời gian chuẩn bị xét xử theo quy định tại điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên toà: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ những quy định của pháp luật về thủ tục tố tụng từ khi khai mạc phiên toà, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, giải quyết hết các yêu cầu khởi kiện cùa nguyên đơn và các ý kiến phản bác của bị đơn. Việc người làm chứng vắng mặt tại phiên toà nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt và có lời khai tại Toà án, các đương sự đều đề nghị HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt người làm chứng nên việc Tòa án xét xử vắng mặt ông Vinh là đúng quy định của pháp luật.

XÉT THẤY

Sau khi nghe lời trình bày, cũng như tranh luận của các đương sự và xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về thủ tục tố tụng:

Ngày 25/6/2012. Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng nộp đơn khởi kiện Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội về Tranh chấp hợp đồng dịch vụ tư vấn về bảo lãnh phát hành chứng khoán. Đây là vụ án tranh chấp về kinh doanh thương mại. Căn cứ điểm m khoản 1 điều 29, điều 33, điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Về thời hiệu khởi kiện: Tháng 3/2011 giữa GMC và SHS tranh chấp về nghĩa vụ bảo lãnh thì đến tháng 6/2012 GMC khởi kiện. Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ điều 319 Luật Thương mại 2005 thể hiện Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng khởi kiện vụ án khi thời hiệu khởi kiện vẫn còn.

Ông Nguyễn Quang Vinh, nguyên tổng giám đốc SHS được Tòa án xác định là nhân chứng, Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Vinh đến tham gia phiên tòa, nhưng ngày 17/12/2013 ông Vinh có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa và đề nghị tòa án xét xử vắng mặt ông, ông Vinh đã có lời khai tại tòa án, các đương sự đồng ý xét xử vắng mặt ông Vinh và đại diện Viện kiểm sát cũng đồng ý để Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa, nên hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông Vinh là đúng quy định pháp luật.

2. Về nội dung tranh chấp:

Khi nộp đơn khởi kiện GMC kiện SHS hai nội dung đó là:

Công ty SHS có trách nhiệm phải thực hiện 50% trách nhiệm bảo lãnh của mình: mua 3.523.842 cổ phần x 12.000/1 cổ phần = 42.861.100.000 (bốn mươi hai tỷ tám trăm sáu mươi mốt triệu một trăm đồng).

Yêu cầu Công ty SHS có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại do lỗi vi phạm cam kết.

Ngày 07/5/2013 GMC có đơn xin rút yêu cầu SHS bồi thường thiệt hại mà chỉ yêu cầu SHS phải mua lại 50% số cổ phần mà GMC chưa bán hết là 42.861.100.000đ. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét yêu cầu của GMC buộc SHS bồi thường thiệt hại do vi phạm cam kết nữa.

Về phía Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội trong quá trình giải quyết vụ án có đưa ra yêu cầu phản tố đề nghị GMC phải thanh toán 72.000.000đ (bảy mươi hai triệu đồng) phí tư vấn theo hợp đồng tư vấn bảo lãnh phát hành chứng khoán mà hai bên đã ký kết. Nhưng sau đó SHS đã không thực hiện việc nghĩa vụ của người có yêu cầu phản tố .Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền và Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của SHS cũng đồng ý tách riêng yêu cầu này để giải quyết sau khi hai bên không thỏa thuận được với nhau về việc thực hiện nghĩa vụ.

Về phía GMC có ý kiến sẽ thực hiện nốt nghĩa vụ thanh toán cho SHS số tiền tư vấn phát hành cổ phiếu theo hợp đồng đã ký.

Xét thấy: Ý kiến của hai bên đương sự không trái với quy định của pháp luật nên được chấp nhận. Tòa án không xem xét giải quyết số tiền phí tư vấn phát hành cổ phiếu mà GMC chưa thanh toán hết cho SHS, hai bên tự thỏa thuận, nếu không hòa giải thành SHS được quyền yêu cầu giải quyết bằng vụ án khác.

Quá trình Hội đồng xét xử hỏi tại phiên tòa các bên đương sự đều xác nhận hình thức, nội dung, thẩm quyền ký kết Hợp đồng dịch vụ tư vấn và bảo lãnh phát hành cổ phiếu số 273/2000/HĐTV&BL-SHS ngày 15/6/2000 và Cam kết bảo lãnh phát hành cổ phiếu được ký ngày 04/10/2000 giữa Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng và Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội do ông Nguyễn Cương – Tổng giám đốc đại diện kiêm Chủ tịch HĐQT GMC và ông Nguyễn Quang Vinh – Tổng giám đốc SHS đại diện ký là phù hợp quy định của pháp luật và điều lệ của công ty.

Căn cứ vào điều 111, 116 Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán, Điều lệ Công ty GMC và Công ty SHS, HĐXX công nhận Hợp đồng dịch vụ tư vấn và bảo lãnh phát hành cổ phiếu số 273/2000/HĐTV&BL-SHS ngày 15/6/2000 và Cam kết bảo lãnh phát hành cổ phiếu được ký ngày 04/10/2000 giữa Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng và Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội do ông Nguyễn Cương – Tổng giám đốc đại diện kiêm Chủ tịch HĐQT GMC và ông Nguyễn Quang Vinh – Tổng giám đốc SHS đại diện ký là đúng quy định của pháp luật và điều lệ của hai công ty.

Tại phiên tòa các đương sự đều thừa nhận hai bên đều thực hiện đúng những quy định tại hợp đồng, quá trình thực hiện không xảy ra tranh chấp, chỉ đến khi Công ty GMC phát hành cổ phiếu cho các cổ đông hiện hữu không hết nên yêu cầu SHS thực hiện việc cam kết bảo lãnh theo quy định tại điều 2 của hợp đồng và điều 2 của bản cam kết, do SHS từ chối nghĩa vụ nên đã nảy sinh tranh chấp giữa hai bên mà không tự giải quyết được.

Nay Công ty GMC buộc SHS phải thực hiện 50% nghĩa vụ bảo lãnh với số cổ phiếu là 7.047.615 cổ phiếu: 2 x 12.000/cổ phần = 42.861.000.000đ.

Về phía SHS không chấp nhận với lý do:

Tại Giấy chứng nhận chào bán cổ phiếu ra công chứng số 720/UBCKNN-GCN ngày 29/10/2010 do Ủy ban chứng khoán nhà nước cấp cho Công ty GMC và Giấy chứng nhận gia hạn số 1112/QĐ-UBNCK ngày 27/12/2010 thì đến ngày 29/12/2011 là hết đợt phát hành chào bán cổ phiếu cho cổ đông chiến lược, đến ngày 15/6/2010 GMC mới thông báo cho SHS yêu cầu thực hiện cam kết bảo lãnh thì thời hạn theo Giấy chứng nhận phát hành cổ phiếu đã hết, SHS không thể thực hiện được nghĩa vụ của mình.

Đồng thời quá trình thực hiện hợp đồng thị trường cổ phiếu của GMC có chiều hướng biến động giảm nhưng GMC khống phối hợp cùng SHS để điều chỉnh giá, do vậy làm cho SHS không thực hiện được quyền miễn trừ nghĩa vụ theo điểm 7.3.1 của hợp đồng.

Vì những lý do đó SHS không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của GMC. Về ý kiến của bị đơn; HĐXX thấy rằng:

Tại bản hợp đồng ,điều 2.1.2 về nội dung bảo lãnh phát hành có quy định phương thức bảo lãnh: SHS mua toàn bộ cổ phiếu phát hành còn lại (của doanh nghiệp) chưa được phân phối hết khi đã thực hiện đầy đủ các bước chào bán cần thiết theo phương án phát hành.

Tại điều 2 cùa bản Cam kết bảo lãnh phát hành cổ phiếu được ký giữa GMC và SHS có quy định phương thức bảo lãnh: Bên bảo lãnh nhận phát hành cổ phiếu theo phương thức, bên bảo lãnh cam kết mua toàn bộ số cổ phần chào bán cho cổ đông hiện hữu còn lại không được phân phối hết sau khi đã thực hiện đầy đủ các bước chào bán theo phương thức phát hành và kết thúc thời hạn chào bán theo quy định của pháp luật với mức giá 12.000/cổ phần; như vậy có thể hiểu về phía trách nhiệm của bên bảo lãnh (SHS) đã cam kết với GMC là sẽ mua lại toàn bộ số cổ phiếu chào bán cho cổ đông hiện hữu không được phân phối hết; căn cứ tài liệu có trong hồ sơ và xác nhận của hai bên thì đến ngày 28/02/2011 kết thúc thời hạn GMC được phát hành cổ phiếu theo quyết định chấp nhận gia hạn số 1112 QĐ-UBCk ngày 27/12/2010 của ủy ban chứng khoán Nhà nước thì GMC mới bán được 163.362 cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu, còn lại 7.047.685 cổ phiếu chưa được phân phối hết, như vậy theo những điều khoản viện dẫn ở trên mà hai bên đã ký trong Hợp đồng và Cam kết bảo lãnh thì công ty SHS phải thực hiện nghĩa vụ cam kết bảo lãnh mua lại số cổ phiếu của GMC chưa được phân phối hết cho cổ đông hiện hữu.

Tuy nhiên căn cứ vào điều 2.4 điều 2 của Hợp đồng dịch vụ tư vấn và bảo lãnh phát hành cổ phiếu số 273 ngày 15/06/2010 có quy định về phạm vi công việc tại hợp đồng không bao gồm các công việc và chi phí phát sinh sau khi việc phát hành đã kết thúc theo đúng thời hạn cuối cùng trong phương án phát hành và báo cáo kết quả phát hành đã được cơ quan quản lý có thẩm quyền chấp thuận. Với quy định này thì hai bên cần phải xác định rõ với nhau đó là những công việc gì, thời hạn cam kết bảo lãnh có nằm trong thời hạn quy định của điều này không, nhưng do hai bên đã không xác định rõ nên lỗi dẫn đến việc hiểu không thống nhất thời hạn phải thực hiện cam kết.

Tại cv số 299A1BCK-TT ngày 18/11/2013 của ủy ban chứng khoán Nhà nước trả lời công văn của Tòa án NDQ Hoàn Kiếm có đoạn như sau: “....pháp luật về chứng khoán hiện chưa có quy định cụ thể về thời điểm thực hiện cam kết bảo lãnh phát hành. Do vậy để đảm bảo quyền lợi của GMC và SHS trong tranh chấp về bảo lãnh phát hành cần xem xét nội dung hợp đồng, cam kết bảo lãnh phát hành và các văn bản khác ký kết giữa các bên...”.

Mặt khác, do hai bên đều có lời khai trong quá trình phát hành cổ phiếu hai bên đều không thể biết được số cổ phiếu đã bán cho cổ đông hiện hữu là bao nhiêu, chỉ đến khi Trung tâm lưu ký chứng khoán tổng hợp danh sách các cổ đông đã mua và thông báo lại cho GMC và GMC báo lại cho SHS thì lúc đó SHS mới biết được số lượng cổ phiếu của GMC đã bán cho cổ đông hiện hữu. Bởi vậy lỗi của hai bên là không thường xuyên cập nhật thông tin tại Trung tâm lưu ký chứng khoán để biết được kết quả số lượng cổ phiếu của GMC đã được bán cho cổ đông hiện hữu của GMC. Tuy nhiên theo các tài liệu thể hiện GMC là tổ chức phát hành nên phải biết rõ hơn số lượng cổ phiếu của mình được bán ra do Trung tâm lưu ký chứng khoán cung cấp. Vì vậy khi thời hạn mua cổ phiếu của các cổ đông hiện hữu chấm dứt vào ngày 18/02/2011 thì GMC cần thông báo cho SHS biết để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình.

Theo quy định tại điều 7.3.1 của Hợp đồng thì nếu thị trường cổ phiếu có biến động thì hai bên phải chủ động bàn bạc để điều chỉnh giá, chứ không chỉ một mình GMC phải có trách nhiệm chủ động trong việc thông báo, yêu cầu SHS bàn bạc điều chinh giá. SHS cho rằng CMC đã không chủ động trong vấn đề này làm mất đi quền xem xét miễn trừ trách nhiệm theo điều 7.3.1 của Hợp đồng là không phù hợp với nội dung của điều khoản quy định trong Hợp đồng.

Từ phân tích trên HĐXX thấy rằng, về hình thức nội dung Hợp đồng và Cam kết bảo lãnh phát hành cổ phiếu được ký giữa GMC và SHS là đúng quy định pháp luật Chứng khoán, hai bên chỉ tranh chấp việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Qua phân tích thì thấy cả hai bên đều có lỗi trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình nhưng do GMC đã không chủ động nắm bắt số lượng cổ phiếu không bán hết để báo cho SHS thực hiện nghĩa vụ khi thời hạn phát hành vẫn còn nên GMC phải chịu 70% lỗi, SHS phải chịu 30% lỗi với số lượng cổ phiếu không bán được là 7.047.685 cổ phiếu. Với 30% lỗi thì SHS phải có trách nhiệm thực hiện phần cam kết bảo lãnh của mình là phải mua 2.114.305 cổ phiếu của GMC với giá 12.000đ/cổ phần = 25.371.666.000đ. Đây là giá trị số lượng cổ phần của GMC mà SHS phải thực hiện nghĩa vụ cam kết bảo lãnh.

Các yêu cầu khác của hai bên đương sự không có cơ sở nên HĐXX không chấp nhận.

Về án phí KDTM sơ thẩm theo quy định của pháp luật, SHS phải chịu án phí đối với phần giá trị cổ phần phải thực hiện cam kết bảo lãnh ,GMC phải chịu án phí đối với phần giá trị yêu cầu không được Tòa án chấp nhận.

Bởi các lẽ trên;

Áp dụng:

 

  • Điểm m khoản 1 điều 29, điểm b khoản 1 điều 33, điều 243, 245 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2005, sửa đổi bổ sung năm 2011;
  • Khoản 14, 22 điều 6 Luật Chứng khoán;
  • Điều 319 Luật Thương mại 2005;
  • Điều 6, điều 7, điều 9 và điều 30 luật Thi hành án
  • Pháp lệnh số về án phí lệ phí Tòa án số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/2/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
  • Thông tư liên tịch số 01 ngày 19/6/1997 của TATC-V KSNDTC- BTP- BTC hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản.

Xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện cùa Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng đối với Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội;

Buộc Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội phải thực hiện một phần cam kết bảo lãnh phát hành cổ phiếu của Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng với nghĩa vụ thưc hịện việc bảo lãnh với số lượng cổ phiếu là 2.114.305 cổ phiếu có giá trị là 371.666.000đ (hai mươi lăm tỷ ba trăm bảy mươi mốt triệu sáu trăm sáu mươi sáu nghìn đồng).

Hai bên thực hiện việc chuyển nhượng cổ phiếu theo quy định của pháp luật Chứng khoán:

Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội (SHS) phải chịu án phí là 133.371.666đ (một trăm ba mươi ba triệu ba trăm bảy mươi mốt nghìn sáu trăm sáu mươi sáu đồng) và Công ty cổ phán ô tô Giải Phóng (GMC) phải chịu án phí là 125.489.434đ (một trăm hai mươi lăm triệu bốn trăm tám mươi chín nghìn bốn trăm ba mươi tư đồng) được trừ vào 75.400.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0009544 ngày 05/7/2012 của Chi cục thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm, còn phải nộp tiếp 50.089.434đ (năm mươi triệu không trăm tám mươi chín nghìn bốn trăm ba mươi tư đồng).

Kế từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật các đương sự có quyền thỏa thuận thi hành án, nếu không thỏa thuận được thì bên được thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án thi hành bản án đối với bên bị thi hành án.

Kể từ ngày có đơn xin thi hành án, bên phải thi hành án phải chịu tiền lãi đối với số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án. Thời hạn yêu cầu Thi hành án là 05 năm theo điều 30 Luật Thi hành án.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt hai bên đương sự, các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời đối với sản phẩm thép mạ từ Trung Quốc và Hàn Quốc (Mã vụ việc: AD19)

Ngày 01/04/2025, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 914/QĐ-BCT về việc áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời đối với một số sản phẩm thép mạ có xuất xứ từ Trung Quốc và Hàn Quốc.

Hàng hóa bị áp thuế có mã HS:

7210.41.11, 7210.41.12, 7210.41.19, 7210.49.11, 7210.49.14, 7210.49.15, 7210.49.16, 7210.49.17, 7210.49.18, 7210.49.19, 7210.50.00, 7210.61.11, 7210.61.12, 7210.61.19, 7210.69.11, 7210.69.19, 7210.90.10, 7210.90.90, 7212.30.11, 7212.30.12, 7212.30.13, 7212.30.14, 7212.30.19, 7212.50.14, 7212.50.19, 7212.50.23, 7212.50.24, 7212.50.29, 7212.50.93, 7212.50.94, 7212.50.99, 7212.60.11, 7212.60.12, 7212.60.19, 7225.92.90, 7226.99.11, 7226.99.91

Mức thuế tạm thời

Đối với hàng hóa có xuất xứ từ Trung Quốc: Lên tới 37,13%

Đối với hàng hóa có xuất xứ từ Hàn Quốc: Lên tới 15,67%

Vụ việc trước được khởi xướng điều tra bởi các doanh nghiệp:

  • Công ty CP Tập đoàn Hoa Sen
  • Công ty CP Thép Nam Kim
  • Công ty Tôn Phương Nam
  • Công ty CP Tôn Đông Á
  • Công ty CP China Steel Sumikin
  • Nippon Steel Việt Nam

Xem và tải Quyết định số 914/QĐ-BCT tại đây: https://caselaw.vn/van-ban-phap-luat/411431-quyet-dinh-so-914-qd-bct-cua-bo-truong-bo-cong-thuong-ap-dung-thue-chong-ban-pha-gia-tam-thoi-doi-voi-mot-so-san-pham-thep-ma-co-xuat-xu-tu-cong-hoa-nhan-dan-trung-hoa-va-dai-han-dan-quoc

Kỹ năng nghề luật có được từ thời thực tập – hành trang giúp sự nghiệp về sau của bạn dù chưa ai từng kể

Không ai bắt đầu nghề luật bằng những bản hợp đồng triệu đô hay những phiên tranh tụng căng thẳng. Đã bao giờ bạn ao ước, ngay sau khi tốt nghiệp, sẽ được tham gia những công việc “chuyên môn cao” như tư vấn pháp lý, soạn thảo hợp đồng, hay trực tiếp tranh tụng tại tòa?

Thực tế thường không màu hồng đến vậy.

Hầu hết đều khởi đầu từ một góc bàn nhỏ, vài tập hồ sơ dày cộp, và những công việc không tên. Những ngày đầu thực tập hoặc mới đi làm thường gắn liền với việc in tài liệu, sắp xếp hồ sơ, gửi công văn, hỗ trợ làm slide báo giá… Toàn những việc có vẻ nhàm chán, tưởng chừng không mấy liên quan đến kiến thức đã học ở trường – và càng khác xa hình ảnh luật sư mặc vest chỉnh tề, lập luận sắc bén như trên phim ảnh.

Nhưng chính trong những công việc tưởng chừng tẻ nhạt đó, sự khác biệt giữa người thành công và người không thành đã bắt đầu manh nha hình thành. Có người làm cho xong, cũng có người coi đó là cơ hội để học nghề từ những điều nhỏ nhất. Cũng từ đó, những kỹ năng nghề luật cho sự nghiệp sau này dần được đặt nền móng.

1. “Không chọn việc” khi thực tập

Có được cơ hội thực tập tại các công ty luật, văn phòng luật sư là một niềm may mắn đối với các bạn sinh viên. Không phải ai cũng được giao ngay những công việc “có tên” trong giai đoạn thực tập. Trên thực tế, phần lớn thực tập sinh sẽ bắt đầu với những đầu việc rất cơ bản: in tài liệu, đi công chứng, đóng dấu hồ sơ, hỗ trợ chuẩn bị cuộc họp, hoặc đơn giản là... đi giao tài liệu cho khách hàng.

Những công việc đó thường không hào nhoáng, không tạo ra cảm giác được làm việc như những luật sư mà bạn có thể kỳ vọng. Tuy nhiên, cách mỗi người tiếp nhận những đầu việc ấy lại là dấu hiệu rõ ràng về tinh thần học hỏi và thái độ nghề nghiệp.

Việc đi giao tài liệu – thoạt nhìn là một đầu việc hành chính thuần túy tưởng như chẳng liên quan gì đến chuyên môn luật. Nhưng nếu nhìn từ góc độ của một người hành nghề thực sự, đây là công việc đòi hỏi sự cẩn trọng, chủ động và kỹ năng xử lý tình huống thực tế.

Trước khi giao tài liệu, thực tập sinh cần kiểm tra lại toàn bộ hồ sơ: đúng loại tài liệu, đúng số lượng, đúng phiên bản cần giao (bản công chứng hay là bản gốc) kèm theo biên bản bàn giao được soạn sẵn. Cần xem thời gian giao có gấp không, tài liệu có phục vụ cho cuộc họp hay thủ tục nào quan trọng không.  Đến khâu di chuyển – cần xem bản đồ, định tuyến đường đi, tránh tắc đường hoặc đến sai địa điểm.

Tại nơi giao, phải xác định đúng người nhận, đúng bộ phận. Chỉ một sơ suất như giao sai người, nhầm phòng ban hoặc làm thất lạc tài liệu cũng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến độ công việc, thậm chí làm phát sinh trách nhiệm không đáng có.

Và chính trong vài phút ngắn ngủi khi gặp khách hàng, một thực tập sinh hoàn toàn có thể học được nhiều kỹ năng quan trọng: từ cách giao tiếp lịch sự, giữ tác phong chuẩn mực, đến việc quan sát văn hóa doanh nghiệp và rèn luyện kỹ năng xử lý tình huống nhỏ nhưng thực tế.

Hay như việc trả lời các tình huống pháp lý thực tế trên các diễn đàn pháp luật – từng là kênh phổ biến trước khi mạng xã hội phát triển. Trước khi được tin tưởng giao xử lý một vụ việc thực tế, hãy tập trả lời các câu hỏi thực tế trên diễn đàn – nơi mọi người đăng các tình huống thường gặp: từ tranh chấp đất đai, lao động, đến hợp đồng dân sự. Tự đọc, tự tra cứu, tự suy nghĩ, và gõ lại từng dòng giải thích cho người ta hiểu. Cách làm này giúp bạn rèn luyện khả năng nghiên cứu, trình bày bằng ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu – và quan trọng nhất là hình thành tư duy pháp lý thực tiễn.

“Không chọn việc” không có nghĩa là làm tất cả. Mà là làm bất kỳ việc gì được giao với tinh thần học nghề nghiêm túc. Chính những điều đó tạo nên bản lĩnh nghề nghiệp mà không lớp học nào có thể dạy. Kỹ năng nghề luật bắt đầu hình thành một cách tự nhiên: quan sát tốt hơn, xử lý linh hoạt hơn, và sẵn sàng hơn để tiếp nhận những công việc khó hơn trong tương lai.

2. Sắp xếp tài liệu

2.1 Việc nhỏ dạy tư duy lớn

Sắp xếp tài liệu là một trong những đầu việc quen thuộc nhất mà thực tập sinh thường được giao trong những ngày đầu tiên. Công việc này có thể bao gồm: dán nhãn, bấm lỗ, kẹp vào bìa, in mục lục, đánh số trang. Ở mức phức tạp hơn là phân loại tài liệu theo nhóm: hồ sơ hành chính, chứng cứ, văn bản trao đổi giữa các bên, hợp đồng, công văn từ cơ quan nhà nước, thư khiếu nại, bản án, quyết định, v.v... Sau đó là bước sắp xếp theo trình tự thời gian, theo tiến trình vụ việc, hoặc theo logic nội dung.

Nhìn qua, đây có vẻ là công việc thuần hành chính, mang tính hỗ trợ, không đòi hỏi kiến thức chuyên môn sâu. Nhưng nếu tiếp cận đúng cách, đây lại là bài học đầu tiên về tư duy hệ thống trong nghề luật. Tại sao?

Tài liệu trong một vụ việc pháp lý có thể lên đến vài trăm trang: hợp đồng, phụ lục, email trao đổi, công văn, biên bản làm việc, thư khiếu nại, đơn khởi kiện, chứng cứ, văn bản tố tụng, đến cả bản án cũ có liên quan. Trong quá trình sắp xếp, thực tập sinh có cơ hội tiếp cận toàn bộ sự kiện của một vụ việc.

Nếu nghĩ rằng công việc này chỉ dừng lại ở mức xếp cho gọn gàng thì bạn đã bỏ lỡ một cơ hội rất đáng giá để học hỏi thực tế. Hãy cầm lại bộ hồ sơ trên tay, cố gắng đọc – hiểu – và hình dung lại bối cảnh pháp lý đang diễn ra trong vụ việc đó. Làm kỹ khâu này sẽ giúp bạn nhận ra mối quan hệ giữa các bên, trình tự diễn biến sự việc, các vấn đề pháp lý phát sinh, và đâu là tài liệu mấu chốt cần lưu ý.

2.1 Lật từng trang tài liệu và đọc kỹ

Bí kíp ở đây là: lật từng trang tài liệu và đọc kỹ. Sẽ có nhiều thông tin mà bạn chưa từng được học trên lớp. Đó có thể là cách luật sư đánh dấu, gạch chân, ghi chú bên lề – những dấu vết thể hiện rõ tư duy phân tích và xử lý vấn đề trong từng vụ việc. Đây là những thứ bạn có thể học được, dù không ai trực tiếp chỉ cho bạn.

  • Mỗi loại tài liệu có giá trị pháp lý ưu tiên khác nhau, nên cần được phân nhóm phù hợp: nhóm làm căn cứ pháp lý, nhóm là tài liệu nội bộ, nhóm để chứng minh hành vi…
  • Thời gian là yếu tố quan trọng: sắp xếp theo trình tự thời gian sẽ giúp nhìn rõ tiến trình tranh chấp hoặc diễn biến của toàn bộ vụ việc.
  • Cách lưu file cũng không kém phần quan trọng: chỉ cần đặt tên file đúng chuẩn và lưu đúng thư mục, bạn có thể tiết kiệm được đáng kể tra cứu – thậm chí còn giúp người khác làm việc nhanh hơn.

Nhờ việc nắm rõ cấu trúc hồ sơ do chính mình sắp xếp, bạn sẽ giúp luật sư phụ trách tìm được văn bản quan trọng trong thời gian ngắn. Đó là một khoảnh khắc nhỏ – nhưng là lúc bạn nhận ra mình thật sự đang góp phần vào công việc, không chỉ đơn thuần nghĩ rằng mình làm việc vặt.

2.3 Ứng dụng vào tranh tụng và M&A

Về sau này, kỹ năng sắp xếp và đọc hiểu tài liệu trở thành nền tảng quan trọng trong nhiều công việc chuyên môn.

  • Trong tranh tụng, luật sư phải xử lý hàng trăm trang hồ sơ để tái dựng lại vụ việc, xác định chứng cứ chính, và xây dựng hệ thống lập luận rõ ràng, logic.
  • Trong M&A, việc rà soát hồ sơ pháp lý (legal due diligence) đòi hỏi khả năng phân loại tài liệu, đối chiếu thông tin, phát hiện rủi ro từ những chi tiết nhỏ nhất – điều mà chỉ ai quen làm việc với tài liệu mới đủ nhạy để xử lý hiệu quả.
  • Trong tư vấn nội bộ, việc kiểm soát và truy xuất tài liệu nhanh chóng giúp đưa ra quyết định chính xác và kịp thời, nhất là trong các tình huống cần phản ứng nhanh với rủi ro pháp lý.

Sắp xếp tài liệu là bước đầu để hình thành tư duy xử lý thông tin – một kỹ năng cốt lõi trong hành nghề luật, và là nền móng để xử lý những công việc phức tạp hơn trong tương lai.

3. Khi slide báo giá không chỉ là thiết kế

Trong các công ty luật, khi tiếp nhận một yêu cầu tư vấn hoặc xử lý vụ việc từ khách hàng, luật sư điều hành hoặc phụ trách thường sẽ yêu cầu bộ phận chuyên môn chuẩn bị một slide báo giá (proposal).

Đây là tài liệu giới thiệu tóm tắt vụ việc, đề xuất phương án xử lý, phạm vi công việc sẽ thực hiện, nhân sự phụ trách, thời gian dự kiến và mức phí tương ứng. Tài liệu này thường được gửi cho khách hàng như một bước mở đầu trước khi ký hợp đồng dịch vụ pháp lý.

Việc làm slide báo giá tuy không trực tiếp giải quyết vấn đề pháp lý, nhưng lại là một phần trong quy trình làm việc chuyên nghiệp. Nó giúp khách hàng hiểu cách tiếp cận của luật sư, đánh giá năng lực xử lý, và đưa ra quyết định hợp tác.

Một ngày tình cờ, bạn được luật sư nhờ hỗ trợ chỉnh slide báo giá. Hãy xem đó là cơ hội để quan sát cách luật sư tiếp cận và xử lý một vụ việc thực tế.

Cách tiếp cận đơn giản là dựa vào bản memo hoặc email đã được soạn trước, rồi chuyển nội dung sang slide PowerPoint. Nhưng nếu chỉ “copy – paste” nguyên văn vào slide thì họ không nhờ bạn làm gì. Người làm slide cần hình dung ra tình huống, từ đó chọn lọc nội dung cần thiết, sắp xếp lại cho ngắn gọn, rõ ràng và đúng trọng tâm. Việc này buộc bạn phải suy nghĩ như một người đang trực tiếp xử lý vụ việc.

Không ai bắt bạn làm slide màu mè. Nhưng một file trình bày rõ ràng, sạch sẽ, đúng ngữ pháp, bố cục hợp lý là dấu hiệu cho thấy bạn có tư duy trình bày tốt – và có khả năng truyền đạt vấn đề pháp lý phức tạp thành thông tin dễ hiểu.

Từ việc làm slide, bạn sẽ dần hình thành thói quen tư duy theo cấu trúc: ngắn – gọn – rõ, không lan man, không vòng vo. Kỹ năng này sẽ được dùng trong nhiều đầu việc chuyên môn của luật sư cấp cao về sau như:

  • Chuẩn bị bài trình bày cho buổi họp với khách hàng;
  • Tham gia pitching cho thương vụ mới;
  • Thuyết trình nội bộ với đội pháp chế doanh nghiệp.

Những gì bạn học được từ việc làm slide khi thực tập sẽ giúp bạn chuyên nghiệp hơn, và tự tin hơn trong mắt khách hàng.

Suy cho cùng, nghề luật là nghề truyền đạt chính xác, mạch lạc và thuyết phục.

4. Cuối cùng

Ba kỹ năng trong bài viết này chỉ là một phần nhỏ trong hành trình học nghề luật từ những ngày đầu thực tập. Còn rất nhiều kỹ năng khác mà một thực tập sinh có thể học được nếu biết quan sát, lắng nghe và chủ động tiếp cận công việc.

Mỗi công việc được giao – dù là nhỏ nhất – đều có thể trở thành một “điểm rơi” để bạn rèn luyện sự cẩn trọng, tư duy hệ thống, khả năng truyền đạt, kỹ năng tổ chức và phối hợp trong môi trường làm việc chuyên nghiệp.

Những người hành nghề luật vững vàng không phải lúc nào cũng bắt đầu từ những việc lớn. Họ chỉ đơn giản là không bỏ lỡ cơ hội học từ những việc nhỏ.

Chọn thời điểm nộp đơn khởi kiện: Sự khác biệt giữa thắng và bại trong tranh tụng

Trong hành trình tranh tụng, việc nộp đơn khởi kiện không đơn thuần là một thủ tục pháp lý. Đó là một bước đi mang tính chiến lược có thể định hình toàn bộ cục diện vụ việc. Việc chọn đúng thời điểm khởi kiện giống như ra khơi vào thời điểm thuận lợi: biết mình sắp đối mặt với sóng to, gió lớn và sẵn sàng ứng phó với mọi kịch bản.

Thời gian là yếu tố sống còn

Một bên có thể yếu thế hơn trong nhiều khía cạnh, nhưng nếu biết chờ đúng thời cơ – khi chứng cứ đã được thu thập đầy đủ, hồ sơ đã được chuẩn bị kỹ lưỡng và có đủ cơ sở pháp lý – thì khả năng thành công sẽ cao hơn rất nhiều. Ngược lại, nếu hành động vội vàng khi chưa nắm chắc toàn bộ yếu tố pháp lý và thực tiễn thì chỉ tự đẩy mình vào thế bất lợi trước tòa.

Chuẩn bị kỹ lưỡng là điều không thể thiếu

Một luật sư giỏi không chỉ biết chọn đúng thời điểm mà còn phải chuẩn bị như một chiến lược gia. Mỗi văn bản, mỗi chứng cứ cần được đánh giá và kiểm tra kỹ lưỡng để không bỏ sót bất kỳ chi tiết nào. Từng bước đi đều cần được lên kế hoạch chi tiết nhằm đảm bảo chúng ta luôn ở thế chủ động khi đối diện với đối phương.

Nghề luật: Không chỉ là biện hộ mà còn là chiến lược

Biện hộ là kỹ năng quan trọng trong nghề luật nhưng chưa đủ để làm nên một luật sư giỏi. Muốn đi xa với nghề, người làm nghề luật cần có khả năng nhìn xa, trông rộng, biết nắm bắt và kiểm soát mọi yếu tố vận động trong vụ việc. Luật sư thành công không đơn thuần dựa vào kiến thức mà chính là nhờ sự tỉnh táo và nhạy bén trong từng quyết định – đặc biệt là quyết định về thời điểm hành động.

Thông điệp gửi đến những người làm công tác pháp chế

Đặc biệt, đối với những bạn đang làm pháp chế tại các doanh nghiệp, việc lựa chọn thời điểm khởi kiện càng đòi hỏi sự tỉnh táo và bản lĩnh. Đôi khi, bạn cần biết cách giải thích và vượt qua áp lực từ cấp trên để có thêm thời gian thu thập chứng cứ, hoàn thiện hồ sơ và chọn đúng thời điểm chín muồi nhằm giành lấy ưu thế ban đầu. Chỉ khi đó, bạn mới thực sự đảm đương đúng vai trò của một “luật sư nội bộ” – người bảo vệ lợi ích doanh nghiệp bằng sự kết hợp giữa kiến thức pháp lý và tư duy chiến lược.

Luật sư Nguyễn Hoàng Chương

Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài Thương Nhân Việt Nam (VTA)

[Mới] Cơ chế lựa chọn Chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội không không thông qua đấu thầu

Nhằm tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục hành chính và đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà ở xã hội, Bộ Xây dựng đang dự thảo Nghị quyết của Quốc hội thí điểm về một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội để trình Chính phủ. Một trong những điểm đáng chú ý của dự thảo là cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu đối với các dự án nhà ở xã hội. Chính sách này nhằm đơn giản hóa quy trình đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai dự án và đáp ứng nhu cầu nhà ở của người thu nhập thấp và công nhân lao động, gắn liền với việc thực hiện Đề án Đầu tư xây dựng ít nhất 01 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021-2030.

Hãy cùng Caselaw Việt Nam tìm hiểu chi tiết về cơ chế này để hiểu rõ hơn về các quy định, phạm vi áp dụng và quy trình thực hiện.

1. Cơ sở pháp lý của chính sách

Cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu được xây dựng dựa trên các văn bản pháp luật và định hướng chính sách sau:

  • Hiến pháp 2013, trong đó quy định Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm chỗ ở cho công dân.
  • Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
  • Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
  • Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021- 2025
  • Luật Nhà ở 2023, quy định về chính sách ưu đãi phát triển nhà ở xã hội.
  • Luật Đấu thầu 2023, quy định về các trường hợp lựa chọn nhà đầu tư theo cơ chế đặc thù.
  • Luật Đầu tư công 2024, điều chỉnh về thủ tục đầu tư và các trường hợp không áp dụng đấu thầu khi lựa chọn nhà đầu tư.
  • Chỉ thị số 34-CT/TW năm 2024 của Ban Bí thư về phát triển nhà ở xã hội.
  • Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội năm 2025 về thí điểm một số cơ chế đặc thù nhằm phát triển nhà ở xã hội.

2. Các trường hợp giao chủ đầu tư không qua đấu thầu

Theo Dự thảo Nghị quyết, cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu áp dụng cho ba nhóm đối tượng sau

(i) Dự án nhà ở xã hội do UBND cấp tỉnh giao:

  • UBND cấp tỉnh có thể giao trực tiếp chủ đầu tư đối với các dự án nhà ở xã hội không thuộc trường hợp do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an hay Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quản lý.
  • Việc giao chủ đầu tư dựa trên danh mục dự án đã được công khai trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh, Bộ Xây dựng và Hệ thống thông tin nhà ở và thị trường bất động sản.
  • Nhà đầu tư phải có năng lực tài chính, kinh nghiệm và cam kết thực hiện đúng tiến độ.

(ii) Dự án nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân:

  • Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có thể giao chủ đầu tư đối với dự án nhà ở phục vụ sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp.
  • Chủ đầu tư phải đáp ứng đủ điều kiện theo Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản và Luật Đầu tư.

(iii) Dự án nhà ở xã hội sử dụng nguồn tài chính công đoàn:

  • Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam được giao chủ đầu tư đối với các dự án nhà ở xã hội dành cho công nhân, người lao động.
  • Việc triển khai phải đảm bảo mức giá nhà ở phù hợp với thu nhập của công nhân và sử dụng nguồn tài chính minh bạch.

3. Quy trình giao chủ đầu tư không qua đấu thầu

Một điểm đáng chú ý trong Dự thảo Nghị quyết là các dự án nhà ở xã hội không phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư. Thay vào đó, văn bản giao chủ đầu tư sẽ thay thế văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư, giúp đơn giản hóa thủ tục hành chính và rút ngắn thời gian triển khai dự án.

Theo quy định tại Điều 31, 32 Luật Đầu tư, các dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội sử dụng vốn ngoài đầu tư công phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư. Tuy nhiên, do các dự án này đã được quản lý thông qua việc phê duyệt quy hoạch, chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở, bố trí quỹ đất và giao chỉ tiêu phát triển nhà ở xã hội, nên Dự thảo Nghị quyết đề xuất miễn thủ tục này nhằm đẩy nhanh tiến độ đầu tư. Việc miễn thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư cũng tương tự như cơ chế đã được áp dụng cho các dự án đường sắt đô thị theo Nghị quyết số 188/2025/QH15, trong đó quy định các dự án được thực hiện ngay việc lập, thẩm định, quyết định đầu tư mà không phải qua bước lập và thẩm định chủ trương đầu tư.

Dự thảo Nghị quyết quy định một quy trình trong việc giao chủ đầu tư nhằm đảm bảo tính công khai và hiệu quả:

- Công bố danh mục dự án: UBND cấp tỉnh hoặc cơ quan có thẩm quyền công bố danh mục dự án nhà ở xã hội trên Cổng thông tin điện tử.

- Tiếp nhận hồ sơ đăng ký: Các doanh nghiệp có đủ năng lực tài chính, kinh nghiệm có thể đăng ký làm chủ đầu tư.

- Xét duyệt và lựa chọn chủ đầu tư: Dựa trên các tiêu chí về năng lực tài chính, kinh nghiệm thực hiện dự án, tiến độ cam kết, phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng.

- Ban hành quyết định giao chủ đầu tư: Sau khi xét duyệt, cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định giao chủ đầu tư, đồng thời thay thế văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư.

4. Một số nội dung liên quan đến cơ chế giao chủ đầu tư

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có thể trực tiếp quản lý các dự án nhà ở xã hội phù hợp với đối tượng thụ hưởng.

Nhà đầu tư được giao chủ đầu tư phải đáp ứng các tiêu chí nhất định theo quy định của Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản và các văn bản hướng dẫn liên quan.

Dự thảo cũng quy định rõ việc công bố thông tin, tiếp nhận hồ sơ và xét duyệt để đảm bảo quá trình giao chủ đầu tư được thực hiện theo đúng quy định.

5. Lộ trình thực hiện

Dự thảo Nghị quyết được dự kiến trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 9 (tháng 4/2025). Nếu được Chính phủ đồng ý, Bộ Xây dựng sẽ phối hợp Bộ Tư pháp và các Bộ liên quan xây dựng Hồ sơ, Dự thảo Nghị quyết để trình Quốc hội.

Bảo vệ dữ liệu cá nhân theo pháp luật Việt Nam: Điều bạn cần biết để an toàn

Dữ liệu cá nhân – nghe thì “luật” đấy, nhưng thực ra nó gần gũi hơn bạn nghĩ. Tên, số điện thoại, email, hay thậm chí ảnh selfie bạn đăng lên mạng đều là dữ liệu cá nhân. Trong thời đại công nghệ, những thông tin này quý như vàng, nhưng cũng dễ bị “đánh cắp” nếu không cẩn thận. May mắn thay, pháp luật Việt Nam đã có những quy định để bảo vệ chúng ta. Bài viết này sẽ giới thiệu cơ bản về bảo vệ dữ liệu cá nhân theo luật Việt Nam, giúp bạn – dù là người mới hay sinh viên luật – hiểu rõ hơn nhé!

Dữ liệu cá nhân là gì? Đừng nghĩ xa xôi!

Theo Nghị định 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân (có hiệu lực từ 1/7/2023), hiểu đơn giản rằng dữ liệu cá nhân là thông tin liên quan đến một người cụ thể, như họ tên, ngày sinh, số CCCD, địa chỉ, hay cả thông tin nhạy cảm như sức khỏe, tài khoản ngân hàng. Nói đơn giản, bất cứ thứ gì “nói lên bạn là ai” đều là dữ liệu cá nhân.

Ví dụ nhé: Bạn đăng ký một ứng dụng mua sắm online, điền tên, số điện thoại, địa chỉ giao hàng. Đó là dữ liệu cá nhân. Hay khi bạn đi khám bệnh, bác sĩ ghi lại tình trạng sức khỏe – đó cũng là dữ liệu cá nhân, nhưng nhạy cảm hơn. Pháp luật bảo vệ để đảm bảo những thông tin này không bị lạm dụng.

Pháp luật Việt Nam bảo vệ dữ liệu cá nhân thế nào?

Trước đây, pháp luật Việt Nam chưa có quy định riêng về dữ liệu cá nhân, mà chỉ rải rác trong các văn bản như Bộ luật Dân sự 2015 hay Luật An toàn thông tin mạng 2015. Nhưng từ khi Nghị định 13/2023/NĐ-CP ra đời, mọi thứ rõ ràng hơn. Đây là văn bản đầu tiên tập trung vào bảo vệ dữ liệu cá nhân, áp dụng cho cả cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức.

Luật yêu cầu:

  • Đồng ý trước khi thu thập: Ai muốn lấy dữ liệu của bạn phải xin phép, trừ vài trường hợp đặc biệt (chẳng hạn như cơ quan nhà nước điều tra).
  • Sử dụng đúng mục đích: Dữ liệu chỉ được dùng cho việc đã nói rõ, không “tự ý” làm chuyện khác.
  • Bảo mật an toàn: Doanh nghiệp phải có biện pháp giữ thông tin của bạn không bị rò rỉ.

Ví dụ: Bạn tải app học tiếng Anh, họ hỏi “Cho phép dùng số điện thoại để gửi thông báo không?”. Bạn đồng ý, họ chỉ được gửi tin học tập, không được tự ý bán số của bạn cho bên quảng cáo kem đánh răng, hoặc cho bọn lừa đảo ở bên Campuchia chẳng hạn. Nếu làm sai, họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Ví dụ thực tế: Khi dữ liệu cá nhân bị “lạm dụng”

Để bạn thấy rõ luật quan trọng thế nào, mình kể một câu chuyện nhé. Giả sử bạn Hùng đăng ký thẻ thành viên ở một siêu thị. Hùng điền tên, số điện thoại, email để được giảm giá. Nhưng vài tuần sau, Hùng nhận hàng tá tin nhắn quảng cáo từ các công ty bảo hiểm, bất động sản – toàn chỗ anh chẳng hề biết! Hóa ra siêu thị đã bán thông tin của Hùng mà không xin phép. Đây là hành vi vi phạm luật, vì theo Nghị định 13/2023, siêu thị phải được Hùng đồng ý trước khi chia sẻ dữ liệu.

Một ví dụ khác: Chị Lan đi làm đẹp ở spa, để lại số điện thoại. Sau đó, thông tin của chị bị lộ, kẻ xấu dùng để lừa đảo, nhắn tin giả danh ngân hàng đòi nợ. Nếu spa không bảo mật dữ liệu tốt, họ phải chịu trách nhiệm.

Quyền của bạn trong việc bảo vệ dữ liệu

Luật không chỉ “bắt” doanh nghiệp mà còn trao quyền cho bạn. Theo Nghị định 13/2023/NĐ-CP, bạn có thể:

  • Yêu cầu xóa dữ liệu: Nếu không muốn họ giữ thông tin nữa, bạn có quyền đòi xóa.
  • Kiểm tra dữ liệu: Bạn được hỏi họ đang dùng thông tin của mình để làm gì.
  • Khiếu nại nếu bị lạm dụng: Nếu dữ liệu bị dùng sai, bạn có thể báo cơ quan chức năng.

Ví dụ: Bạn thấy một ứng dụng cứ gửi tin nhắn rác dù bạn không đồng ý, bạn có thể yêu cầu họ xóa số điện thoại của mình. Nếu họ không làm, bạn báo lên phía công an – họ sẽ xử lý.

Tại sao cần quan tâm?

Với sinh viên luật, hiểu về bảo vệ dữ liệu cá nhân là bước đầu để nắm luật trong thời đại số. Còn với người bình thường, nó giúp bạn tự bảo vệ mình. Dữ liệu cá nhân bị lộ không chỉ phiền toái mà còn nguy hiểm – từ lừa đảo đến mất tiền. Chỉ cần cẩn thận khi chia sẻ thông tin và biết quyền của mình, bạn đã an toàn hơn nhiều.

Giữ dữ liệu như giữ ví tiền – Đừng chủ quan kẻo tiền mất tật mang

Bảo vệ dữ liệu cá nhân theo pháp luật Việt Nam không phải chuyện xa vời, mà là điều bạn gặp hàng ngày. Từ việc đăng ký app, đi khám bệnh, đến mua sắm, luật đều có cách giữ thông tin của bạn an toàn. Hãy nhớ: dữ liệu cá nhân giống như chiếc ví – đừng để ai “móc” mất, và nếu có chuyện gì, pháp luật đứng về phía bạn!

Tác giả: Hà Mạnh Tú

Luật sư cấp cao Công ty TNHH Công nghệ Huawei Việt Nam

Áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại đối với sản phẩm đường mía (AC02.AD13-AS01)

Giới thiệu tổng quan

Bộ Công Thương đã áp dụng biện pháp chống lẩn tránh phòng vệ thương mại (PVTM), bao gồm chống bán phá giá (CBPG) và chống trợ cấp (CTC), đối với sản phẩm đường mía nhập khẩu từ Lào, Campuchia, Indonesia, Malaysia, và Myanmar. Đây là biện pháp nhằm ngăn chặn tình trạng lẩn tránh các biện pháp phòng vệ trước đó, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh cho ngành sản xuất trong nước. Biện pháp này chính thức có hiệu lực từ ngày 9/8/2022 và dự kiến kéo dài đến ngày 15/6/2026, trừ trường hợp có thay đổi theo quy định pháp luật.

1. Thông tin vụ việc

1.1. Bên yêu cầu

  • Công ty Cổ phần Mía đường Sơn Dương
  • Công ty Cổ phần Mía đường Sơn La
  • Công ty Cổ phần TNHH Công nghiệp KCP Việt Nam
  • Công ty Cổ phần Mía đường Cần Thơ
  • Công ty Cổ phần Mía đường 333
  • Công ty Cổ phần Mía đường Sóc Trăng

1.2. Hàng hóa bị áp dụng biện pháp chống lẩn tránh PVTM

  • Tên khoa học: Đường sacarose (sucrose)
  • Tên gọi thông thường: Đường cát, đường mía, đường kính, đường thô, đường trắng, đường tinh luyện, đường RE, đường RS
  • Phân loại mã HS: 1701.13.00, 1701.14.00, 1701.91.00, 1701.99.10, 1701.99.90, 1702.90.91
    (Danh sách mã HS có thể được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tế)

1.3. Xuất xứ hàng hóa bị áp dụng biện pháp PVTM

  • Campuchia, Lào, Malaysia, Myanmar, Indonesia

2. Mức thuế và thời gian áp dụng biện pháp

Mức thuế CBPG và CTC

Bảng 1 (AC02.AD13-AS01): Mức thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp (áp dụng từ 9/8/2022 đến 15/6/2026)

Quốc gia

Thuế CBPG

Thuế CTC

Campuchia

42,99%

4,65%

Indonesia

42,99%

4,65%

Lào

42,99%

4,65%

Malaysia

42,99%

4,65%

Myanmar

42,99%

4,65%

Loại trừ áp dụng biện pháp PVTM đối với:

Hàng hóa được sản xuất bởi các công ty sau không thuộc phạm vi áp dụng biện pháp:

  • Kampong Speu Sugar Co., Ltd.
  • Kasekam Youveakchun Svay Rieng Co., Ltd.
  • PT. Kebun Tebu Mas
  • Mitr Lao Sugar Company Limited
  • Savannakhet Sugar Corporation
  • TTC Attapeu Sugar Cane Sole Co., LTD
  • Than Daung OO Company Limited
  • Ngwe Yi Pale Sugar Company Limited

Thời hạn áp dụng

  • Thời gian hiệu lực: Từ 9/8/2022 đến 15/6/2026
  • Gia hạn và rà soát: Có thể thay đổi theo các quyết định bổ sung của Bộ trưởng Bộ Công Thương.

3. Tình trạng vụ việc hiện nay

  • Hiện tại: Biện pháp chống lẩn tránh biện pháp PVTM đang được áp dụng đối với hàng hóa từ các quốc gia nêu trên.

4. Văn bản pháp luật liên quan đến vụ việc

  • Quyết định 1407/QĐ-BCT năm 2024: Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới.
  • Quyết định 494/QĐ-BCT năm 2024: Gia hạn thời hạn rà soát nhà xuất khẩu mới.

Các sự kiện đáng chú ý

Thời gian

Sự kiện

21/09/2021

Khởi xướng điều tra

01/08/2022

Ban hành quyết định áp dụng biện pháp chống lẩn tránh PVTM

28/03/2023

Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới

11/12/2023

Ban hành quyết định rà soát nhà xuất khẩu mới

11/03/2024

Gia hạn thời hạn rà soát nhà xuất khẩu mới

10/06/2024

Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới

Xem thêm: Toàn cảnh áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại tại Việt Nam – 29 vụ việc từ 2009 đến 2024

Ra mắt tool tính Thuế chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam

Kính chào Quý khách hàng,

Caselaw Việt Nam trân trọng thông báo tính năng mới: Tính thuế Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam tại https://caselaw.vn/tinh-thue-chong-ban-pha-gia.

Tính năng Tính thuế Chống bán phá giá sẽ là công cụ hữu ích giúp cho các nhà xuất khẩu nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam thực hiện các công việc vốn trước đây đòi hỏi nhiều thời gian để nghiên cứu quy định pháp luật và tham vấn luật sư:

(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam; 

(ii) Biết được mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và Tính số tiền thuế Chống bán phá giá;

(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS;

Theo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 ngày 06/04/2016 của Quốc Hội, Thuế chống bán phá giá là thuế nhập khẩu bổ sung được áp dụng trong trường hợp hàng hóa bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong. 

Trang dữ liệu thông tin pháp lý về Mã HS của Caselaw Việt Nam cập nhật các mã HS hàng hóa bị áp thuế chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam. Tính đến tháng 12/2020, Việt Nam đã áp thuế chống bán phá giá đối 7 nhóm sản phẩm với 74 mã HS hàng hóa có xuất xứ từ 6 quốc gia: Trung Quốc, Đài Loan, Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan.

(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam

Để biết mã HS của hàng hóa nhập khẩu có bị đánh thuế Chống bán phá giá hay không, Quý khách hàng truy cập trang Tính Thuế chống bán phá giá. Sau đó nhập mã HS 8 số và bấm kiểm tra.
 

Kết quả kiểm tra sau khi nhập mã HS 8 số:

(ii) Xem mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và tính số tiền thuế Chống bán phá giá:

Dữ liệu tính thuế và công thức tính thuế Chống bán phá giá được các chuyên gia cố vấn của Caselaw Việt Nam tổng hợp chính xác dựa trên các quyết định về áp thuế chống bán phá giá của Bộ Công thương. Sau khi nhập đủ các thông tin vào các ô dữ liệu và bấm nút tính thuế, bạn sẽ biết được chính xác số thuế Chống bán phá giá phải nộp. Kết quả hiển thị đi kèm với các thông tin về: mức thuế suất, thời gian áp thuế, quốc gia bị áp thuế và các công ty xuất khẩu. 

(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS:

Tại trang thông chi tiết của mỗi mã HS, ví dụ như mã 29224220, ngoài thông tin về các loại thuế suất như: thuế VAT, thuế nhập khẩu ưu đãi, thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các hiệp định FTA(s), Quý khách hàng sẽ được xem thêm thuế Chống bán phá giá theo từng thời gian, quốc gia xuất khẩu, công ty xuất khẩu.

Caselaw Việt Nam luôn mong muốn mang đến cho Quý khách hàng các tiện ích nhằm hỗ trợ hiệu quả cho công việc. 

Chúng tôi rất vui khi được đồng hành cùng Quý khách hàng.

Trân trọng,

Caselaw Việt Nam Team

7 mẫu hợp đồng được sử dụng để thực thi quyền sử dụng đất (đặt cọc, góp vốn, cho mượn, chuyển nhượng, thế chấp, hợp tác kinh doanh...)

1. Thỏa Thuận Đặt Cọc Mua Đất Nông Nghiệp

2. Hợp Đồng Hợp Tác Kinh Doanh Góp Vốn Bằng Giá Trị Quyền Sử Dụng Đất

3. Hợp Đồng Chuyển Nhượng Quyền Sử Dụng Đất Và Tài Sản Gắn Liền Trên Đất (Xây Dựng Cửa Hàng Xăng Dầu)

4. Hợp Đồng Cho Mượn Đất

5. HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở (MS 01)

6. HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC Chuyển nhượng quyền sử dụng đất (MS 01)

7. HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP Quyền sử dụng đất và căn hộ (MS 01)

(Dự thảo án lệ số 1) Quyết định GĐT số 01/2017/KDTM-GĐT ngày 1/3/2017 về công nhận hợp đồng thế chấp QSDĐ mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế chấp

Án lệ số  /2017/AL về công nhận hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế chấp

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày…  tháng … năm 2017 và được công bố theo Quyết định số …/QĐ-CA ngày … tháng … năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 01/2017/KDTM-GĐT ngày 01-3-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” tại thành phố Hà Nội giữa nguyên đơn là Ngân hàng A với bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn B; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 10 người.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 4 phần “Nhận định của Toà án”

Khái quát nội dung của án lệ:

- Tình huống án lệ 1:

Một bên thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nhưng trên đất còn có tài sản thuộc sở hữu của người khác;hình thức và những nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật.

- Giải pháp pháp lý 1:

Trường hợp này, Tòa án phải xác định hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật.

- Tình huống án lệ 2:

Bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản gắn liền với đất không thuộc sở hữu của người sử dụng đất.

- Giải pháp pháp lý 2:

Trường hợp này, khi giải quyết Tòa án phải dành cho chủ sở hữu nhà trên đất được quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó nếu họ có nhu cầu.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

Điều 342 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương ứng với Điều 318 Bộ luật dân sự năm 2015); Điều 715, Điều 721Bộ luật Dân sự năm 2005; mục 4 khoản 19 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22-02-2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (pháp điển hóa tại khoản 2 Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2015).

Từ khóa của án lệ:

“Thế chấp quyền sử dụng đất”; “Trên đất có tài sản của người khác”; “Thỏa thuận xử lý tài sản thế chấp”; “Ưu tiên nhận chuyển nhượng”.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Tại đơn khởi kiện đề ngày 6/10/2011 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là Ngân hàng A trình bày:

Ngày 16-6-2008, Ngân hàng A (sau đây viết tắt là Ngân hàng)và Công ty trách nhiệm hữu hạnB (sau đây viết tắt là Công ty B) ký Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142. Theo đó, Ngân hàng cho Công ty B vay 10.000.000.000 đồng và/hoặc bằng ngoại tệ tương đương. Mục đích cấp tín dụng để bổ sung vốn lưu động phục vụ kinh doanh theo nghề đăng ký của Công ty B.

Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân tổng cộng 3.066.191.933 đồng cho Công ty Btheo các Hợp đồng tín dụng kiêm Khế ước nhận nợ. Tính đến ngày 05-10-2011, Công ty Bcòn nợ gốc và lãi của 03 Khế ước là 4.368.570.503 đồng (trong đó nợ gốc là 2.943.600.000 đồng, nợ lãi là 1.424.970.503 đồng).

Tài sản bảo đảm cho khoản vay nêu trên là nhà, đất [thửa đất số 43, tờ bản đồ số 5I-I-33 (1996)] tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H và bà N (theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 10107490390 do Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 07-12-2000), do ông H, bà N thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Hợp đồng thế chấp này được Phòng công chứng số 6 thành phố Hà Nội công chứng ngày 11-6-2008 và Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm ngày 11-6-2008.

Ngày 30-10-2009, Ngân hàng và Công ty Btiếp tục ký Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200900583. Theo đó, Ngân hàng cho Công ty B vay 180.000 USD. Mục đích vay để thanh toán tiền vận chuyển hàng hóa lô hàng xuất khẩu; thời hạn vay 09 tháng; lãi suất vay 5,1%/năm; lãi suất quá hạn bằng 150%.

Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân đủ số tiền vay 180.000 USD cho Công ty B. Công ty B mới trả cho Ngân hàng số tiền nợ gốc là 100.750 USD và số nợ lãi là 1.334,50 USD. Tính đến ngày 05-10-2011, Công ty Bcòn nợ gốc là 79.205 USD và nợ lãi là 16.879,69 USD. Tổng cộng cả nợ gốc và lãi là 96.120,69 USD.

Tài sản bảo đảm cho khoản vay của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-2009058 gồm:

- Lô hàng 19 xe ô tô tải thành phẩm trọng tải 1,75 tấn hiệu JMP mới 100% trị giá 2.778.750.000 đồng (do Công ty B lắp ráp theo phương thức hàng để kho đơn vị, Ngân hàng giữ Giấy chứng nhân đăng kiểm chất lượng xe xuất xưởng) do Công ty Bthế chấp theo Hợp đồng thế chấpsố 219/2009/EIBHBT-CC ngày 29-10-2009. Hợp đồng thế chấp này được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Cục đăng ký giao dịch bảo đảm thành phố Hà Nội ngày 02-11-2009;

- Số dư tài khoản tiền gửi kỳ hạn 03 tháng trị giá 1.620.000.000 đồng do Ngân hàng phát hành. Do Công ty Bđã thực hiện được một phần nợ vay nên Ngân hàng đã giải chấp số tiền 1.620.000.000 đồng tiền gửi trong tài khoản tiết kiệm của Công ty B, tương ứng với số nợ đã thanh toán.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Ngân hàng xác nhận: đối với khoản vay 180.000 USD, Công ty B đã trả xong nợ gốc; chỉ còn lại nợ lãi là 5.392,81 USD; tài sản bảo đảm là 19 xe ô tô, hiện đã bán 18 chiếc, còn lại 01 chiếc; đề nghị Tòa án cho xử lý nốt chiếc xe còn lại để thu hồi nợ vay còn thiếu.

Ngân hàng yêu cầu Tòa án buộc:

- Công ty Bthanh toán số nợ gốc và lãi bằng VNĐ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 là 4.368.570.503 đồng;

- Công ty Bthanh toán 5.392,81 USD nợ lãi bằng USD của Hợp đồng tín dụng số 1702-LVA-200900583.

Trong trường hợp, Công ty Bkhông thanh toán hoặc thanh toán không đủ đề nghị Tòa án phát mãi tài sản thế chấp là:

- Quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H và bà N;

- 01 xe ô tô tải thành phẩm, trọng tải 1,75 tấn, hiệu JMP mới 100% do Công ty Blắp ráp theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 219/2009/EIBHBT- CC ngày 29-10-2009.

Đại diện bị đơn là anh T - Tổng Giám đốc Công ty B trình bày: Thừa nhận số tiền nợ gốc, lãi và tài sản thế chấp như Ngân hàng trình bày nhưng đề nghị Ngân hàng cho trả nợ dần.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông H và bà N trình bày: Ông bàthừa nhận ký hợp đồng thế chấp nhà, đất số 432 nêu trên để bảo đảm cho khoản vay tối đa là 3.000.000.000 đồng của Công ty B. Hợp đồng thế chấp được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm. Gia đình ông H và bà N cũng đã hỗ trợ Công ty trả được gần 600.000.000 đồng cho khoản vay có tài sản thế chấp là nhà và đất của ông bà. Ông, bà đề nghị Ngân hàng gia hạn khoản nợ của Công ty Bđể Công ty có thời gian phục hồi sản xuất, thu xếp trả nợ cho Ngân hàng; đề nghị Tòa án không triệu tập các con trai, con dâu, con gái và con rể của ông bà đến Tòa án làm việc.

Anh P thay mặt cho những người con, cháu của ông H, bà N đang sống tại nhà, đất số 432 trình bày:

Cuối năm 2010, anh mới biết bố mẹ anh thế chấp nhà đất của gia đình đang ở để bảo đảm cho khoản vay của Công ty B. Sau khi ông H, bà N được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000, anh Pvà anh Q đã bỏ tiền ra xây dựng thêm một ngôi nhà 3,5 tầng trên đất và 16 người trong gia đình hiện đang ở tại nhà, đất số 432 nêu trên. Khi ký hợp đồng thế chấp, Ngân hàng không hỏi ý kiến các anh và những người đang sinh sống tại nhà, đất này. Do đó, anh đề nghị Tòa án không công nhận hợp đồng thế chấp và xem xét số tiền 550.000.000 đồng mà anh em các anh đóng góp vào trả nợ cho Công ty B theo Hợp đồng tín dụng có tài sản bảo đảm là nhà, đất số 432 nêu trên nhưng Ngân hàng tự ý trừ vào khoản vay ngoại tệ có tài sản bảo đảm là 19 xe ô tô là không đúng.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24/9/2013, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng A đối với Công ty TNHH B.

- Buộc Công ty TNHH B phải thanh toán trả cho Ngân hàng A số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142, bao gồm:nợ gốc 2.813.600.000 đồng; nợ lãi trong hạn 2.080.977.381 đồng; nợ lãi quá hạntính đến ngày 23-9-2013 1.036.575.586đồng; tiền lãi phạt chậm trảtính đến ngày 23-9-2013123.254.156 đồng; Tổng cộng:  6.054.407.123 đồng.

- Buộc Công ty TNHHBphải thanh toán trả cho Ngân hàng A số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800583, gồm số tiền nợ lãi quá hạn là 5.392,81 USD.

Trong trường hợp Công ty TNHH Bkhông trả nợ hoặc trả không đủ số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142, thì Ngân hàng Acó quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật là quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại thửa số 43, tờ bản đồ số 5I-I-33 (1996) theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 10107490390 do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 07-12-2000 cho ông H và bà N tại địa chỉ số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội để thu hồi nợ…

Trường hợp Công ty TNHH Bkhông trả nợ hoặc trả không đủ số tiền nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800583, thì Ngân hàng A có quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo đảm là 01 chiếc xe ô tô tải, trọng tải 1,75 tấn hiệu JMP do Công ty TNHH Blắp ráp theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 219/2009/EIBHBT-CC ngày 29-10-2009 để thu hồi nợ.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 07-7-2014, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định:

Giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về Hợp đồng tín dụng, về các khoản tiền vay và tiền Công ty B phải trả Ngân hàng A;hủy phần quyết định của Bản án sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về  phần hợp đồng thế chấp, bảo đảm của người thứ 3, cụ thể:

… Hủy phần quyết định về hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của người thứ 3 (nhà đất số 432, tổ 28 phường E, quận G, thành phố Hà Nội) ký ngày 11-6-2008 tại Phòng công chứng số 6 thành phố Hà Nội và đăng ký tài sản bảo đảm tại Sở tài nguyên và môi trường thành phố Hà Nội ngày 11-6-2008…

Giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xác minh, thu thập chứng cứ và xét xử lại, xác định phần tài sản hợp pháp thuộc sở hữu của ông H, bà N làm tài sản thế chấp bảo đảm cho Công ty TNHH B đối với khoản tiền vay ở Ngân hàng A theo Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 ngày 16-6-2008.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, Ngân hàng, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có văn bản đề nghị xem xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Kháng nghị giám đốc thẩm số 14/2016/KDTM-KN ngày 12-4-2016, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 7-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 7-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xử hủy bản án phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Hồ sơ vụ án thể hiện, để đảm bảo cho khoản vay theo Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 ngày 16-6-2008 tại Ngân hàng của Công ty B do anh T là con trai ông H, bà N làm Giám đốc, thì ngày 11-6-2008, ông H và bà N đã thế chấp nhà, đất tại số 432,tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H, bà N theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Hợp đồng thế chấp này được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật.

[2] Theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 07/12/2000, thì nhà, đất tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội (sau đây viết tắt là nhà, đất số 432), gồm: diện tích đất ở 147,7 m2, diện tích nhà ở 85 m2, kết cấu nhà: bê tông và xây gạch; số tầng: 02+01. Khi thẩm định tài sản thế chấp, Ngân hàng biết trên diện đất 147,7 m2 ngoài căn nhà 02 tầng đã được đăng ký sở hữu, còn có căn nhà 3,5 tầng chưa đăng ký sở hữu nhưng Ngân hàng chỉ định giá quyền sử dụng đất và căn nhà 02 tầng đã đăng ký sở hữu với tổng giá trị nhà, đất là 3.186.700.000 đồng, mà không thu thập thông tin, tài liệu để xem xét làm rõ nguồn gốc cũng như ai là chủ sở hữu căn nhà 3,5 tầng là thiếu sót, không đảm bảo quyền lợi của các đương sự.

[3] Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 06-6-2012, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ, xác định: nhà, đất số 432 có 02 khối nhà (gồm: khối nhà thứ nhất: diện tích chiếm đất là 37,5 m2, chiều dài 5,9 m, chiều rộng 6,35 m; khối nhà thứ hai là nhà bê tông ba tầng có ban công, diện tích 61,3 m2) và hiện có 16 người thường trú, đăng ký dài hạn, thường xuyên sinh sống. Trước khi xét xử sơ thẩm, ngày 21-9-2013, anh P (con trai ông H, bà N) có Đơn kiến nghị gửi Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cho rằng sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000, do khó khăn về chỗ ở, năm 2002, gia đình ông H, bà N đã thống nhất để anh P và những người con của ông H, bà N bỏ tiền ra xây dựng thêm căn nhà 3,5 tầng bên cạnh căn nhà 02 tầng cũ trên thửa đất nói trên. Như vậy, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội biết trên thực tế hiện trạng thửa đất khi thế chấp đã có 02 căn nhà (căn nhà 02 tầng cũ và căn nhà 3,5 tầng) không đúng theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000 và Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Khi giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có xem xét yêu cầu của anh P và những người con ông H, bà N liên quan đến căn nhà 3,5 tầng nhưng Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội không quyết định rõ có xử lý phát mãi căn nhà 3,5 tầng hay không là không đúng, không đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự.

[4] Theo quy định tại mục 4 khoản 19 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm: “Trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất không đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì khi xử lý quyền sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được tiếp tục sử dụng đất theo như thỏa thuận giữa người sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Quyền và nghĩa vụ giữa bên thế chấp và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được chuyển giao cho người mua, người nhận chính quyền sử dụng đất”. Trong vụ án này, khi ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, bên thế chấp (ông H, bà N) và bên nhận thế chấp (Ngân hàng) đều biết rõ trên thửa đất của ông H, bà N ngoài căn nhà 02 tầng đã được đăng ký quyền sở hữu thì trên đất còn có một căn nhà 3,5 tầng chưa được đăng ký quyền sở hữu nhưng các bên chỉ thỏa thuận thế chấp tài sản gồm quyền sử dụng đất và căn nhà 02 tầng gắn liền với đất. Trường hợp trên đất có nhiều tài sản gắn liền với đất mà có tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất, có tài sản thuộc sở hữu của người khác mà người sử dụng đất chỉ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình, hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật thì hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm xác định Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008 có một phần bị vô hiệu (phần có căn nhà 3,5 tầng); xử hủy phần quyết định của bản án sơ thẩm về phần hợp đồng thế chấp và giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xác minh, thu thập chứng cứ xác định phần tài sản hợp pháp thuộc sở hữu của ông H, bà N và xét xử lại là không đúng. Lẽ ra, với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm cần xem xét, quyết định về xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và căn nhà thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông H, bà N theo quy định của pháp luật. Khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm cần yêu cầu đương sự cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh nguồn gốc hình thành căn nhà 3,5 tầng nêu trên để giải quyết vụ án bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho những người đã bỏ tiền ra xây dựng nhà và đang sinh sống tại đó. Đồng thời, Tòa án cấp phúc thẩm cần hỏi ý kiến, động viên, khuyến khích các đương sự thỏa thuận xử lý tài sản thế chấp. Trường hợp bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng diện tích đất mà trên đất có nhà thuộc sở hữu của người khác không phải là người sử dụng đất thì cần dành cho chủ sở hữu nhà đó được quyền ưu tiên nếu họ có nhu cầu mua (nhận chuyển nhượng).

[5] Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ theo thỏa thuận của các bên tại khoản 5.4 Điều 5 Hợp đồng tín dụng về lãi phạt chậm trả trên số lãi chưa thanh toán “lãi phạt chậm trả là quá 10 ngày kể từ ngày đáo hạn, mức lãi phạt là 2% trên số lãi chưa thanh toán; quá 30 ngày kể từ ngày đáo hạn, mức lãi phạt là 5% trên số lãi chưa thanh toán” để chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng buộc Công ty B phải trả số tiền lãi phạt chậm trả123.254.156 đồng là không đúng pháp luật, không được chấp nhận vì đây là lãi chồng lãi. Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện ra sai sót này, vẫn giữ nguyên quyết định này của bản án sơ thẩm cũng là không đúng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 337, khoản 3 Điều 343, Điều 345 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự;

1. Chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm số 14/2016/KDTM-KN ngày 12-4-2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

2.  Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 07-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội về vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng A, bị đơn là Công ty TNHH B và 10 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

3. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm đúng quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“[4] Trường hợp trên đất có nhiều tài sản gắn liền với đất mà có tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất, có tài sản thuộc sở hữu của người khác mà người sử dụng đất chỉ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình, hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật thì hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật…

…Trường hợp bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng diện tích đất mà trên đất có nhà thuộc sở hữu của người khác không phải là người sử dụng đất thì cần dành cho chủ sở hữu nhà đó được quyền ưu tiên nếu họ có nhu cầu mua (nhận chuyển nhượng).”

(nguồn: anle.toaan.gov.vn)