cơ sở dữ liệu pháp lý

15/2013/KDTM-ST: Tranh chấp hợp đồng tư vấn bảo lãnh và phát hành chứng khoán

  • Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
  • Vụ việc, Vụ án: Tranh chấp hợp đồng tư vấn bảo lãnh và phát hành chứng khoáng
  • Loại vụ việc: Sơ thẩm
  • Cơ quan xét xử: TAND cấp huyện
  • Số hiệu: 15/2013/KDTM-ST
  • Ngày tuyên án: 30-12-2013
  • Ngày thụ lý: 13/07/2012
  • Kết quả vụ việc: Chấp nhận 1 phần
  • Link thay thếhttps://caselaw.vn/ban-an/IJm4vAO7Ro
  • Lưu ýTại phiên tòa phúc thẩm diễn ra ngày 03/6/2014, Hội đồng xét xử đã có kết luận sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu khởi kiện của GMC về việc yêu cầu SHS phải mua lại 50% số lượng cổ phần mà GMC không bán hết cho cổ đông hiện hữu là 3.523.842 cổ phiếu x 12.000 đồng/1 cổ phiếu.
  • ----------------------------------------------------------
    Trong ngày 23/12/2013 và ngày 30/12/2013, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 24/2012/TLST-KDTM ngày 13 tháng 7 năm 2012 , theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/QĐXX ngày 04 tháng 12 năm 2013 về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ tư vấn và bảo lãnh phát hành chứng khoán”, giữa:

    Nguyên đơn:

    Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng (GMC)

    Trụ sở: khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang.

    Do ông Nguyễn Cương - Chủ tịch HĐQT làm đại diện theo pháp luật.

    Đại diện theo ủy quyền ông Phạm Nguyên Hoàng - Cán bộ Công ty (theo giấy ủy quyền lập ngày 21/8/2012).

    Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn:

    Luật sư Vũ Thị Kim Ngọc - Văn phòng Luật sư Hưng Giang - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng.

    Bị đơn:

    Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội (SHS).

    Trụ sở: tầng 1, 3 trung tâm Hội nghị Công đoàn, số 1 phố Yết Kiêu, Hoàn kiếm, Hà Nội.

    Do ông Hoàng Đình Lợi - Tổng giám đốc làm đại diện theo pháp luật.

    Đại diện theo ủy quyền ông Vũ Đức Tiến - Phó Tổng giám đốc kiêm Chánh văn

    phòng Hội đồng quản trị (theo giấy ủy quyền lập ngày 27/7/2012).

    Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn:

    Luật sư Phạm Quang Hòa - Văn phòng luật sư Nguyễn Huy Thiệp và cộng sự - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội.

    Người làm chứng: Ông Nguyễn Quang Vinh.

    Trú tại: số 22 Mạc Đĩnh Chi, phường Trúc Bạch, Ba Đình, Hà Nội.

    Nguyên Tổng giám đốc Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội.


    NHẬN THẤY

    Theo đơn khởi kiện của Công ty cổ phần ô tô giải phóng (GMC) ngày 19/6/2012; các lời khai của nguyên đơn và Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn đã trình bày tại Tòa án có nội dung như sau:

    Ngày 15/6/2010 Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng (gọi tắt là CMC) và Công ty chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội (gọi tắt là SHS), ký Hợp đồng dịch vụ tư vấn và bảo lãnh phát hành cổ phiếu số 273/2010/HĐTV & BL - SHS. Theo đó:

    Công ty SHS nhận trách nhiệm thực hiện các công việc liên quan đến tư vấn tài chính và phát hành cổ phiếu phù hợp với tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp; nhận bảo lãnh phát hành cổ phièu phát hành thêm của Doanh nghiệp.

    Phương thức bảo lãnh: mua toàn bộ số cổ phiếu phát hành còn lại chưa được phân phối hết sau khi thực hiện đầy đủ các bước chào bán cần thiết theo phương thức phát hành.

    Việc bảo lãnh phát hành phải được hai bên thống nhất, ký kết thành từng Hợp đồng cam kết riêng, với hình thức và thẩm quyền ký tương ứng với Hợp đồng. Nếu có mâu thuẫn hoặc cách hiểu trái ngược giữa các bản Hợp đồng cam kết riêng với Hợp đồng thì áp dụng theo Hợp đồng cam kết ký sau”.

    Trên cơ sở đó, ngày 04/10/2010 Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng và Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội, ký “Cam kết bảo lãnh" phát hành cổ phiếu của Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng. Cam kết có nội dung:

    Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội nhận bảo lãnh phát hành cổ phiếu theo phương thức - bên nhận bảo lãnh cam kết mua toàn bộ số cổ phần chào bán theo phương án phát hành và kết thúc thời hạn chào bán theo quy định của pháp luật; với giá 12.000/cổ phần.

    Thời hạn phân phối: Trong vòng 90 ngày kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đăng ký phát hành do Uỷ Ban chứng khoán nhà nước cấp.

    Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày hết hạn thu tiền của cổ đông hiện hữu, Công ty chứng khoán Sài Gòn - Hà nội sẽ thanh toán cho Công ty cổ phần ô tô Giãi Phóng đầy đủ số tiền mua cổ phần bảo lãnh mà Công ty SHS được hưởng theo Hợp đồng tư vấn bảo lãnh mà hai bên đã ký kết và một số điều khoản khác.

    Quá trình thực hiện cam kết:

    Dựa trên kết quả tư vấn của Công ty SHS - theo Hợp đồng dịch vụ tư vấn số 273/HĐTV ngày 15/6/2010 Công ty GMC được ủy Ban chứng khoán nhà nước cấp Giấy chứng nhận chào bán cổ phiếu ra công chúng số 720/UBNCK GCN ngày 29/10/2010. Chứng nhận rằng:

    Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng được đăng ký chào bán ra công chúng 9.013.945 cổ phiếu; trong đó 7.211.047 cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu; 1.802.898 cổ phiếu cho đối tác chiến lược.

    Thời hạn phân phối: 90 ngày (kể từ ngày cấp giấy chứng nhận). Tổ chức tư vấn phát hành: Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội.

    Trên cơ sở giấy chứng nhận chào bán cổ phần này, thực hiện cam kết bảo lãnh phát hành cổ phiếu giữa Công ty GMC và Công ty SHS, ngày 04/10/2010: Công ty SHS đã tiến hành chào bán cổ phần của Công ty GMC, với đầy đủ các bước chào bán theo phương thức phát hành.

    Tuy nhiên, hết thời hạn phân phối theo giấy chứng nhận số 720/UBNCK-GCN ngày 29/10/2010 (90 ngày và thời gian gia hạn giấy chứng nhận chào bán cổ phiếu tại quyết định số 1112/QĐ-UBNCK ngày 27/12/2010 (30 ngày) - đến hết ngày 29/02/2011 phải hoàn thành việc phân phối cổ phiếu. Nhưng kết thúc đợt chào bán, số cổ phiếu được bán cho cổ đông hiện hữu chỉ có 163.362 cổ phiếu.

    Như vậy, số cổ phiếu chào bán hiện hữu còn lại không được phân phối hết là 7.047.685 cổ phiếu.

    Căn cứ, điều 2 - “Cam kết bảo lãnh” ngày 04/10/2010 giữa Công ty GMC và Công ty SHS có nghĩa vụ “mua toàn bộ số cổ phần chào bán cho cổ đông hiện hữu còn lại không phân phối hết với mức giá 12.000/1 cổ phần”.

    Công ty GMC đã rất nhiều lần trực tiếp và bằng văn bản yêu cầu Công ty SHS thực hiện nghĩa vụ theo điều 2 - Cam kết bảo lãnh ngày 04/10/2010. Tuy nhiên, đến thời điểm này Công ty SHS không thực hiện.

    Thực hiện quyền của mình theo cam kết, GMC đã có văn bản đề nghị ủy ban chứng khoán Nhà nước can thiệp, đưa ra hướng giải quyết vụ việc nêu trên, ngày 02/08/2011 UBCK nhà nước có công văn số 335/UBCK-TT cho rằng GMC cần tiến hành giải quyết tranh chấp với Công ty SHS tại Tòa án theo Hợp đồng và cam kết bảo lãnh ký kết giữa hai bên.

    Do vậy, căn cứ điều 29, 30, 35, 36 - BLTTDS, Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng kính đề nghị Tòa án thụ lý, giải quyết vụ việc theo trình tự thủ tục giải quyết vụ án kinh doanh thương mại. Buộc Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội thực hiện phần nghĩa vụ theo điều 2 - Cam kết bảo lãnh ngày 04/10/2010 giữa Công ty SHS và Công ty GMC, cụ thể:

    1/ Công ty SHS có trách nhiệm phải mua toàn bộ số cổ phần chào bán cho có đóng hiện hữu còn lại không phân phối hết. Với mức giá 12.000/1 cổ phần. Tuy nhiên, với thiện chí chia sẻ khó khăn do ảnh hưởng khủng hoảng thị trường; Vì quan hệ hợp tác thân thiện lâu dài giữa hai bên. Bằng đơn khởi kiện này Công ty GMC yêu cầu Công ty SHS thực hiện 50% trách nhiệm của mình: mua 3.523.842 cổ phiếu x 12.000/1 cổ phiếu = 42.861.100.000 (bốn mươi hai tỷ tám trăm sáu mươi mốt triệu một trăm đồng).

    2/ Yêu cầu Công ty SHS có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại do lỗi vi phạm cam kết – Công ty SHS đã đẩy Công ty GMC vào tình trạng ngừng trệ sản xuất, gia tăng nợ lãi ngân hàng..., gây thiệt hại nghiêm trọng cho Công ty GMC.

    Ngày 07/5/2013 GMC có đơn xin rút yêu cầu SHS bồi thường thiệt hại mà chỉ yêu cầu SHS phải mua lại 50% số cổ phần mà GMC chưa bán hết là 3.523.842 cổ phiếu x 12.000/1 cổ phiếu = 42.861.100.000 (bốn mươi hai tỷ tám trăm sáu mươi mốt triệu một trăm đồng).

    Tại phiên tòa: GMC và luật sư của GMC vẫn giữ nguyên yêu cầu nêu trên.

    Ý kiến của công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội (SHS) và Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn:

    Ngày 15/06/2010, Công ty SHS và Công ty GMC ký kết Hợp đồng dịch vụ tư vấn và Bảo lãnh phát hành cổ phiếu số 273/2010/HĐ7V&BL-SHS (Hợp đồng). Ngày 04/10/2010, Công ty SHS và Công ty GMC tiếp tục ký Cam kết bảo lãnh phát hành. Theo hai văn bản này, SHS sẽ tư vấn GMC thực hiện phát hành cổ phiếu, đồng thời SHS bảo lãnh phát hành cổ phiếu của GMC với nội dung: SHS sẽ mua toàn bộ số cổ phiếu không phân phối hết cho cổ đông hiện hữu của GMC trong đợt phát hành này.

    Ngày 29/10/2010, GMC được ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp Giấy chứng nhận đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng số: 720/UBCKNN-GCN. Giấy chứng nhận này có hiệu lực đến hết tháng 01/2011, sau đó được gia hạn đến hết ngày 28/02/2011.

    Đầu tháng 03/2011, CMC yêu cầu SHS thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, tuy nhién, đến thời điểm này đã hết hiệu lực của Giấy chứng nhận đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng (kể cả thời hạn được phép gia hạn hiệu lực theo quy định). Do vây, SHS không có căn cứ pháp lý để thực hiện yêu cầu của GMC.

    Ngày 19/06/2012, GMC khởi kiện SHS tại Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm yêu cầu SHS phải mua lại 50% số cổ phần mà GMC không bán hết cho cổ đông hiện hữu là 3.523.842 cổ phiếu x 12.000/1 cổ phiếu = 42.861.100.000 (bốn mươi hai tỷ tám trăm sáu mươi mốt triệu một trăm đồng).

    Theo các tài liệu có trong hồ sơ của tòa án , SHS trình bày quan điểm về yêu cầu khởi kiện của GMC là SHS không thể thực hiện cam kết bảo lãnh mà hai bên đã ký ngày 04/10/2010 vì thời gian hết hạn phát hành chứng khoán của GMC là ngày 28/02/2011 nhưng đến ngày 03/3/2011 thì GMC mới yêu cầu SHS mua lại số cổ phần chưa bán hết cho cổ đông hiện hữu và cho rằng ông Nguyễn Quang Vinh ký hợp đồng tư vấn bảo lãnh phát hành chứng khoán cũng như cam kết bảo lãnh với GMC là vượt quá thẩm quyền. Ngoài ra SHS còn đưa ra yêu cầu phản tố đề nghị GMC phải thanh toán 72.000.000đ (bảy mươi hai triệu đồng) phí tư vấn theo hợp đồng tư vấn bảo lãnh phát hành chứng khoán mà hai bên đã ký kết.

    Tại phiên tòa: SHS thừa nhận ông Nguyễn Quang Vinh - Tổng giám đốc công ty SHS ký hợp đồng tư vấn bảo lãnh phát hành chứng khoán với ông Nguyễn Cương - Tổng giám đốc Công ty GMC là đúng thẩm quyền. Hai bên có ký hợp đồng tư vấn và bảo lãnh phát hành chứng khoán và cam kết bảo lãnh như GMC trình bày. Lý do SHS không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của GMC vì SHS cho rằng GMC yêu cầu SHS phải mua lại cổ phiếu không bán hết cho cổ đông hiện hữu ngoài thời hạn GMC được phát hành cổ phiếu theo giấy phép phát hành cổ phiếu mà UBCK Nhà nước cấp cho GMC. SHS đề nghị không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của GMC.

    Công ty SHS có ý kiến về khoản tiền dich vụ tư vấn mà công ty GMC chưa thanh toán nốt cho công ty SHS hai bên sẽ tự giải quyết, nếu không giải quyết được sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.

    Tại phiên tòa, ông Nguyễn Quang Vinh - người làm chứng vắng mặt. Ông có lời khai thể hiện trong hồ sơ như sau:

    Tháng 6/2010 giữa GMC và SHS có ký Hợp đồng dịch vụ tư vấn và bảo lãnh phát hành cổ phiếu, tháng 10/2010 hai bên ký Cam kết bảo lãnh phát hành cổ phiếu. Sau khi xem xét tôi thấy hợp đồng chưa có dấu hiệu vô hiệu nhưng Cam kết bảo lãnh phát hành cổ phiếu chúng tôi thấy đại diện cùa GMC ký không đúng thẩm quyền theo quy định. Lý do là theo quy định mẫu Cam kết bảo lãnh của UBCK Nhà nước thì thẩm quyền ký cam kết phải là người đại diện theo pháp luật nhưng ông Nguyễn Cương ký cam kết với chức danh Tổng giám đốc, trong khi điều lệ của GMC thì người đại diện theo pháp luật là Chủ tịch Hội đồng quản trị.

    Đối với hợp đồng tư vấn dịch vụ tư vấn bảo lãnh và phát hành cổ phiếu thì SHS đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo hợp đồng, cho đến nay GMC mới tạm ứng 60.000.000đ tiền phí, tổng phí hợp đồng tư vấn là 132.000.000đ (gồm cả VAT). Nay SHS có quyền yêu cầu GMC phải thanh toán nốt số tiền phí còn lại. Về phí bảo lãnh phát hành cổ phiếu thì do SHS chưa thực hiện công việc này nên không phát sinh phí.

    Khi phát hành cổ phiếu, GMC phải có nghĩa vụ theo dõi tình hình và kết quả thực hiện quyền mua cổ phiếu của cổ đông hiện hữu. GMC phải có nghĩa vụ thông háo kết quả chào bán cổ phiếu cho bên bảo lãnh phát hành. Phía GMC có nghĩa vụ cung cấp các thông tin cần thiết để SHS thực hiện các nghĩa vụ của mình theo cam kết. SHS không có nghĩa vụ phải phối hợp với GMC để nắm bắt thông tin về kết quả chào bán cổ phiếu. Chỉ có hai đơn vị là tổ chức phát hành (GMC) và Trung tâm lưu ký chứng khoán mới có được thông tin về kết quả việc chào bán cho cổ đông hiện hữu, Vì vậy trong thời hạn của giấy phép thì bên GMC phải có nghĩa vụ thông báo cho SHS về nghĩa vụ bảo lãnh (nếu có) theo cam kết.

    Thòi điểm thực hiện việc bảo lãnh là khi tổ chức phát hành thông báo về việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho bên bảo lãnh, tức là thông báo số lượng cổ phiếu chưa chào bán hết cho cổ đông hiện hữu mà tổ chức bảo lãnh phải mua. Tuy nhiên thời hạn bảo lãnh phải nằm trong thời hạn có hiệu lực của giấy phép phát hành do UBCK Nhà nước cấp.

    Trong thực tế GMC thông báo nghĩa vụ bảo lãnh cho SHS theo công văn số 03/2011/CV GMC ghi ngày 03/3/2011 (SHS nhận được công văn này vào ngày 07/3/2011), trong khi hiệu lực cuối cùng của giấy phép sau khi đã được gia hạn là ngày 20/02/2011. Như vậy đã hết thời gian để SHS thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

    Lý do SHS không thực hiện việc bảo lãnh cổ phiếu là vì Giấy phép chào bán chứng khoán được cấp đã hết thời hạn.

    Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm:

    Về thủ tục tố tụng: Toà án thụ lý và giải quyết vụ án Tranh chấp Hợp đồng dịch vụ tư vấn bảo lãnh phát hành chứng khoán là đúng thẩm quyền. Quá trình tiến hành tố tụng, Thẩm phán, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng trình tự tố tụng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên vụ án còn vi phạm thời gian chuẩn bị xét xử theo quy định tại điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự.

    Tại phiên toà: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ những quy định của pháp luật về thủ tục tố tụng từ khi khai mạc phiên toà, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, giải quyết hết các yêu cầu khởi kiện cùa nguyên đơn và các ý kiến phản bác của bị đơn. Việc người làm chứng vắng mặt tại phiên toà nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt và có lời khai tại Toà án, các đương sự đều đề nghị HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt người làm chứng nên việc Tòa án xét xử vắng mặt ông Vinh là đúng quy định của pháp luật.

    XÉT THẤY

    Sau khi nghe lời trình bày, cũng như tranh luận của các đương sự và xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

    1. Về thủ tục tố tụng:

    Ngày 25/6/2012. Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng nộp đơn khởi kiện Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội về Tranh chấp hợp đồng dịch vụ tư vấn về bảo lãnh phát hành chứng khoán. Đây là vụ án tranh chấp về kinh doanh thương mại. Căn cứ điểm m khoản 1 điều 29, điều 33, điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

    Về thời hiệu khởi kiện: Tháng 3/2011 giữa GMC và SHS tranh chấp về nghĩa vụ bảo lãnh thì đến tháng 6/2012 GMC khởi kiện. Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ điều 319 Luật Thương mại 2005 thể hiện Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng khởi kiện vụ án khi thời hiệu khởi kiện vẫn còn.

    Ông Nguyễn Quang Vinh, nguyên tổng giám đốc SHS được Tòa án xác định là nhân chứng, Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Vinh đến tham gia phiên tòa, nhưng ngày 17/12/2013 ông Vinh có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa và đề nghị tòa án xét xử vắng mặt ông, ông Vinh đã có lời khai tại tòa án, các đương sự đồng ý xét xử vắng mặt ông Vinh và đại diện Viện kiểm sát cũng đồng ý để Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa, nên hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông Vinh là đúng quy định pháp luật.

    2. Về nội dung tranh chấp:

    Khi nộp đơn khởi kiện GMC kiện SHS hai nội dung đó là:

    Công ty SHS có trách nhiệm phải thực hiện 50% trách nhiệm bảo lãnh của mình: mua 3.523.842 cổ phần x 12.000/1 cổ phần = 42.861.100.000 (bốn mươi hai tỷ tám trăm sáu mươi mốt triệu một trăm đồng).

    Yêu cầu Công ty SHS có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại do lỗi vi phạm cam kết.

    Ngày 07/5/2013 GMC có đơn xin rút yêu cầu SHS bồi thường thiệt hại mà chỉ yêu cầu SHS phải mua lại 50% số cổ phần mà GMC chưa bán hết là 42.861.100.000đ. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét yêu cầu của GMC buộc SHS bồi thường thiệt hại do vi phạm cam kết nữa.

    Về phía Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội trong quá trình giải quyết vụ án có đưa ra yêu cầu phản tố đề nghị GMC phải thanh toán 72.000.000đ (bảy mươi hai triệu đồng) phí tư vấn theo hợp đồng tư vấn bảo lãnh phát hành chứng khoán mà hai bên đã ký kết. Nhưng sau đó SHS đã không thực hiện việc nghĩa vụ của người có yêu cầu phản tố .Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền và Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của SHS cũng đồng ý tách riêng yêu cầu này để giải quyết sau khi hai bên không thỏa thuận được với nhau về việc thực hiện nghĩa vụ.

    Về phía GMC có ý kiến sẽ thực hiện nốt nghĩa vụ thanh toán cho SHS số tiền tư vấn phát hành cổ phiếu theo hợp đồng đã ký.

    Xét thấy: Ý kiến của hai bên đương sự không trái với quy định của pháp luật nên được chấp nhận. Tòa án không xem xét giải quyết số tiền phí tư vấn phát hành cổ phiếu mà GMC chưa thanh toán hết cho SHS, hai bên tự thỏa thuận, nếu không hòa giải thành SHS được quyền yêu cầu giải quyết bằng vụ án khác.

    Quá trình Hội đồng xét xử hỏi tại phiên tòa các bên đương sự đều xác nhận hình thức, nội dung, thẩm quyền ký kết Hợp đồng dịch vụ tư vấn và bảo lãnh phát hành cổ phiếu số 273/2000/HĐTV&BL-SHS ngày 15/6/2000 và Cam kết bảo lãnh phát hành cổ phiếu được ký ngày 04/10/2000 giữa Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng và Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội do ông Nguyễn Cương – Tổng giám đốc đại diện kiêm Chủ tịch HĐQT GMC và ông Nguyễn Quang Vinh – Tổng giám đốc SHS đại diện ký là phù hợp quy định của pháp luật và điều lệ của công ty.

    Căn cứ vào điều 111, 116 Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán, Điều lệ Công ty GMC và Công ty SHS, HĐXX công nhận Hợp đồng dịch vụ tư vấn và bảo lãnh phát hành cổ phiếu số 273/2000/HĐTV&BL-SHS ngày 15/6/2000 và Cam kết bảo lãnh phát hành cổ phiếu được ký ngày 04/10/2000 giữa Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng và Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội do ông Nguyễn Cương – Tổng giám đốc đại diện kiêm Chủ tịch HĐQT GMC và ông Nguyễn Quang Vinh – Tổng giám đốc SHS đại diện ký là đúng quy định của pháp luật và điều lệ của hai công ty.

    Tại phiên tòa các đương sự đều thừa nhận hai bên đều thực hiện đúng những quy định tại hợp đồng, quá trình thực hiện không xảy ra tranh chấp, chỉ đến khi Công ty GMC phát hành cổ phiếu cho các cổ đông hiện hữu không hết nên yêu cầu SHS thực hiện việc cam kết bảo lãnh theo quy định tại điều 2 của hợp đồng và điều 2 của bản cam kết, do SHS từ chối nghĩa vụ nên đã nảy sinh tranh chấp giữa hai bên mà không tự giải quyết được.

    Nay Công ty GMC buộc SHS phải thực hiện 50% nghĩa vụ bảo lãnh với số cổ phiếu là 7.047.615 cổ phiếu: 2 x 12.000/cổ phần = 42.861.000.000đ.

    Về phía SHS không chấp nhận với lý do:

    Tại Giấy chứng nhận chào bán cổ phiếu ra công chứng số 720/UBCKNN-GCN ngày 29/10/2010 do Ủy ban chứng khoán nhà nước cấp cho Công ty GMC và Giấy chứng nhận gia hạn số 1112/QĐ-UBNCK ngày 27/12/2010 thì đến ngày 29/12/2011 là hết đợt phát hành chào bán cổ phiếu cho cổ đông chiến lược, đến ngày 15/6/2010 GMC mới thông báo cho SHS yêu cầu thực hiện cam kết bảo lãnh thì thời hạn theo Giấy chứng nhận phát hành cổ phiếu đã hết, SHS không thể thực hiện được nghĩa vụ của mình.

    Đồng thời quá trình thực hiện hợp đồng thị trường cổ phiếu của GMC có chiều hướng biến động giảm nhưng GMC khống phối hợp cùng SHS để điều chỉnh giá, do vậy làm cho SHS không thực hiện được quyền miễn trừ nghĩa vụ theo điểm 7.3.1 của hợp đồng.

    Vì những lý do đó SHS không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của GMC. Về ý kiến của bị đơn; HĐXX thấy rằng:

    Tại bản hợp đồng ,điều 2.1.2 về nội dung bảo lãnh phát hành có quy định phương thức bảo lãnh: SHS mua toàn bộ cổ phiếu phát hành còn lại (của doanh nghiệp) chưa được phân phối hết khi đã thực hiện đầy đủ các bước chào bán cần thiết theo phương án phát hành.

    Tại điều 2 cùa bản Cam kết bảo lãnh phát hành cổ phiếu được ký giữa GMC và SHS có quy định phương thức bảo lãnh: Bên bảo lãnh nhận phát hành cổ phiếu theo phương thức, bên bảo lãnh cam kết mua toàn bộ số cổ phần chào bán cho cổ đông hiện hữu còn lại không được phân phối hết sau khi đã thực hiện đầy đủ các bước chào bán theo phương thức phát hành và kết thúc thời hạn chào bán theo quy định của pháp luật với mức giá 12.000/cổ phần; như vậy có thể hiểu về phía trách nhiệm của bên bảo lãnh (SHS) đã cam kết với GMC là sẽ mua lại toàn bộ số cổ phiếu chào bán cho cổ đông hiện hữu không được phân phối hết; căn cứ tài liệu có trong hồ sơ và xác nhận của hai bên thì đến ngày 28/02/2011 kết thúc thời hạn GMC được phát hành cổ phiếu theo quyết định chấp nhận gia hạn số 1112 QĐ-UBCk ngày 27/12/2010 của ủy ban chứng khoán Nhà nước thì GMC mới bán được 163.362 cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu, còn lại 7.047.685 cổ phiếu chưa được phân phối hết, như vậy theo những điều khoản viện dẫn ở trên mà hai bên đã ký trong Hợp đồng và Cam kết bảo lãnh thì công ty SHS phải thực hiện nghĩa vụ cam kết bảo lãnh mua lại số cổ phiếu của GMC chưa được phân phối hết cho cổ đông hiện hữu.

    Tuy nhiên căn cứ vào điều 2.4 điều 2 của Hợp đồng dịch vụ tư vấn và bảo lãnh phát hành cổ phiếu số 273 ngày 15/06/2010 có quy định về phạm vi công việc tại hợp đồng không bao gồm các công việc và chi phí phát sinh sau khi việc phát hành đã kết thúc theo đúng thời hạn cuối cùng trong phương án phát hành và báo cáo kết quả phát hành đã được cơ quan quản lý có thẩm quyền chấp thuận. Với quy định này thì hai bên cần phải xác định rõ với nhau đó là những công việc gì, thời hạn cam kết bảo lãnh có nằm trong thời hạn quy định của điều này không, nhưng do hai bên đã không xác định rõ nên lỗi dẫn đến việc hiểu không thống nhất thời hạn phải thực hiện cam kết.

    Tại cv số 299A1BCK-TT ngày 18/11/2013 của ủy ban chứng khoán Nhà nước trả lời công văn của Tòa án NDQ Hoàn Kiếm có đoạn như sau: “....pháp luật về chứng khoán hiện chưa có quy định cụ thể về thời điểm thực hiện cam kết bảo lãnh phát hành. Do vậy để đảm bảo quyền lợi của GMC và SHS trong tranh chấp về bảo lãnh phát hành cần xem xét nội dung hợp đồng, cam kết bảo lãnh phát hành và các văn bản khác ký kết giữa các bên...”.

    Mặt khác, do hai bên đều có lời khai trong quá trình phát hành cổ phiếu hai bên đều không thể biết được số cổ phiếu đã bán cho cổ đông hiện hữu là bao nhiêu, chỉ đến khi Trung tâm lưu ký chứng khoán tổng hợp danh sách các cổ đông đã mua và thông báo lại cho GMC và GMC báo lại cho SHS thì lúc đó SHS mới biết được số lượng cổ phiếu của GMC đã bán cho cổ đông hiện hữu. Bởi vậy lỗi của hai bên là không thường xuyên cập nhật thông tin tại Trung tâm lưu ký chứng khoán để biết được kết quả số lượng cổ phiếu của GMC đã được bán cho cổ đông hiện hữu của GMC. Tuy nhiên theo các tài liệu thể hiện GMC là tổ chức phát hành nên phải biết rõ hơn số lượng cổ phiếu của mình được bán ra do Trung tâm lưu ký chứng khoán cung cấp. Vì vậy khi thời hạn mua cổ phiếu của các cổ đông hiện hữu chấm dứt vào ngày 18/02/2011 thì GMC cần thông báo cho SHS biết để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình.

    Theo quy định tại điều 7.3.1 của Hợp đồng thì nếu thị trường cổ phiếu có biến động thì hai bên phải chủ động bàn bạc để điều chỉnh giá, chứ không chỉ một mình GMC phải có trách nhiệm chủ động trong việc thông báo, yêu cầu SHS bàn bạc điều chinh giá. SHS cho rằng CMC đã không chủ động trong vấn đề này làm mất đi quền xem xét miễn trừ trách nhiệm theo điều 7.3.1 của Hợp đồng là không phù hợp với nội dung của điều khoản quy định trong Hợp đồng.

    Từ phân tích trên HĐXX thấy rằng, về hình thức nội dung Hợp đồng và Cam kết bảo lãnh phát hành cổ phiếu được ký giữa GMC và SHS là đúng quy định pháp luật Chứng khoán, hai bên chỉ tranh chấp việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Qua phân tích thì thấy cả hai bên đều có lỗi trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình nhưng do GMC đã không chủ động nắm bắt số lượng cổ phiếu không bán hết để báo cho SHS thực hiện nghĩa vụ khi thời hạn phát hành vẫn còn nên GMC phải chịu 70% lỗi, SHS phải chịu 30% lỗi với số lượng cổ phiếu không bán được là 7.047.685 cổ phiếu. Với 30% lỗi thì SHS phải có trách nhiệm thực hiện phần cam kết bảo lãnh của mình là phải mua 2.114.305 cổ phiếu của GMC với giá 12.000đ/cổ phần = 25.371.666.000đ. Đây là giá trị số lượng cổ phần của GMC mà SHS phải thực hiện nghĩa vụ cam kết bảo lãnh.

    Các yêu cầu khác của hai bên đương sự không có cơ sở nên HĐXX không chấp nhận.

    Về án phí KDTM sơ thẩm theo quy định của pháp luật, SHS phải chịu án phí đối với phần giá trị cổ phần phải thực hiện cam kết bảo lãnh ,GMC phải chịu án phí đối với phần giá trị yêu cầu không được Tòa án chấp nhận.

    Bởi các lẽ trên;

    Áp dụng:

    • Điểm m khoản 1 điều 29, điểm b khoản 1 điều 33, điều 243, 245 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2005, sửa đổi bổ sung năm 2011;
    • Khoản 14, 22 điều 6 Luật Chứng khoán;
    • Điều 319 Luật Thương mại 2005;
    • Điều 6, điều 7, điều 9 và điều 30 luật Thi hành án
    • Pháp lệnh số về án phí lệ phí Tòa án số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/2/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
    • Thông tư liên tịch số 01 ngày 19/6/1997 của TATC-V KSNDTC- BTP- BTC hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản.

    Xử:

    Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện cùa Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng đối với Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội;

    Buộc Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội phải thực hiện một phần cam kết bảo lãnh phát hành cổ phiếu của Công ty cổ phần ô tô Giải Phóng với nghĩa vụ thưc hịện việc bảo lãnh với số lượng cổ phiếu là 2.114.305 cổ phiếu có giá trị là 371.666.000đ (hai mươi lăm tỷ ba trăm bảy mươi mốt triệu sáu trăm sáu mươi sáu nghìn đồng).

    Hai bên thực hiện việc chuyển nhượng cổ phiếu theo quy định của pháp luật Chứng khoán:

    Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội (SHS) phải chịu án phí là 133.371.666đ (một trăm ba mươi ba triệu ba trăm bảy mươi mốt nghìn sáu trăm sáu mươi sáu đồng) và Công ty cổ phán ô tô Giải Phóng (GMC) phải chịu án phí là 125.489.434đ (một trăm hai mươi lăm triệu bốn trăm tám mươi chín nghìn bốn trăm ba mươi tư đồng) được trừ vào 75.400.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0009544 ngày 05/7/2012 của Chi cục thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm, còn phải nộp tiếp 50.089.434đ (năm mươi triệu không trăm tám mươi chín nghìn bốn trăm ba mươi tư đồng).

    Kế từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật các đương sự có quyền thỏa thuận thi hành án, nếu không thỏa thuận được thì bên được thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án thi hành bản án đối với bên bị thi hành án.

    Kể từ ngày có đơn xin thi hành án, bên phải thi hành án phải chịu tiền lãi đối với số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án. Thời hạn yêu cầu Thi hành án là 05 năm theo điều 30 Luật Thi hành án.

    Án xử công khai sơ thẩm có mặt hai bên đương sự, các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

    Khuôn khổ pháp lý về PPP tại Việt Nam từ 1997 đến 2019

    1. Giai đoạn từ năm 1997 – 2008:

    Tại Việt Nam, đầu tư theo hình thức PPP được bắt đầu thực hiện từ năm 1997 với chỉ duy nhất một hình thức hợp đồng BOT (Nghị định số 77/CP ngày 18/6/1997). Đến năm 1998, các loại hợp đồng PPP đã được mở rộng gồm 03 loại BOT, BTO, BT (Nghị định số 62/1998/NĐ-CP ngày 15/8/1998). Năm 2005, khái niệm về 03 loại hợp đồng BOT, BTO, BT lần đầu tiên được quy định tại Luật Đầu tư và tiếp tục được hướng dẫn thực hiện tại Nghị định số 78/2007/NĐ-CP ngày 11/5/2007. Trong giai đoạn này, các văn bản quy phạm pháp luật đều chưa có hương dẫn về lựa chọn nhà đầu tư dự án PPP.

    (Ảnh minh họa: sưu tầm)

    2. Giai đoạn từ năm 2009 – 2013:

    Ngày 27/11/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 108/2009/NĐ-CP quy định các hình thức đầu tư theo hợp đồng BOT, BTO và BT áp dụng thống nhất cho nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế.

    Ngày 09/11/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg về Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức PPP, trong đó lần đầu tiên định nghĩa thuật ngữ PPP. Tuy nhiên, Quyết định nêu trên chưa nêu cụ thể các loại hợp đồng dự án PPP, cũng như không phân tách rõ ràng với Nghị định số 108/2009/NĐ-CP, đặc biệt là quy định cụ thể về quy trình, thủ tục thực hiện dự án PPP và các cơ chế, chính sách kèm theo… Do sự tồn tại song song của hai văn bản này trong cùng một giai đoạn nên nhiều ý kiến vẫn cho rằng mô hình PPP (theo Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg) và 03 loại hợp đồng BOT, BTO, BT (theo Nghị định số 108/2009/NĐ-CP) là những hình thức đầu tư khác nhau.

    Về lựa chọn nhà đầu tư, trong giai đoạn này, Luật Đấu thầu năm 2005 không điều chỉnh hoạt động lựa chọn nhà đầu tư dự án PPP. Việc lựa chọn nhà đầu tư thực hiện theo Nghị định số 108/2009/NĐ-CP, Nghị định số 24/2011/NĐ-CP sửa đổi Nghị định số 108/2009/NĐ-CP và Thông’tư số 03/2011/TT-BKHĐT ngày 27/01/2011 của Bộ KH&ĐT.

    Ảnh: Nút giao thông trung tâm quận Long Biên là một trong các dự án BT đã hoàn thành, mang lại hiệu quả đầu tư cao cho Hà Nội (sưu tầm)

    3. Giai đoạn từ năm 2014 đến nay:

    Trong giai đoạn này, quy định về đầu tư theo hình thức PPP đã được thể chế hóa ở các văn bản Luật khác nhau (như Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư) và quy định về PPP được thống nhất trong Nghị định của Chính phủ, cụ thể:

    + Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13: Khoản 4 Điều 5 quy định đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện dự án PPP là đầu tư công. Điều 33 của Luật cũng quy định nguyên tắc, trình tự, thủ tục, nội dung quyết định chủ trương đầu tư đối với dự án PPP.

    + Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2014); Phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu (Khoản 3 Điều 1) đã bổ sung quy định về lựa chọn nhà đầu tư PPP. Khoản 2 Điều 3 của Luật quy định về việc áp dụng Luật Đấu thầu, theo đó, đối với trường hợp đã lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án PPP thì nhà đầu tư không phải lựa chọn nhà thầu thực hiện dự án theo Luật Đấu thầu nhưng phải ban hành quy định về lựa chọn nhà thầu để áp dụng thống nhất trong doanh nghiệp, đảm bảo mục tiêu công bằng, minh bạch, hiệu quả kinh tế. Quy định về giải thích từ ngữ (Điều 4) đã bổ sung các thuật ngữ liên quan đến PPP bao gồm định nghĩa cơ quan nhà nước có thẩm quyền, doanh nghiệp dự án PPP, hợp đồng dự án. Luật cũng quy định riêng một chương (Chương 6) về trình tự, thủ tục, phương pháp, hình thức lựa chọn nhà đầu tư. Các loại hợp đồng PPP, điều kiện ký kết hợp đồng được quy định từ Điều 68 đến Điều 72.

    + Luật Đầu tư số 67/2014/QH13: Khoản 8 Điều 3 và Điều 27 nêu định nghĩa về hợp đồng PPP, theo đó, hợp đồng PPP là hợp đồng được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để thực hiện dự án đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng, quản lý và vận hành công trình kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp dịch vụ công. Lĩnh vực, điều kiện, thủ tục thực hiện dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP theo quy định chi tiết của Chính phủ.

    Ngày 14/02/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/2015/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Nghị định 15/CP) trên cơ sở hợp nhất Nghị định số 108/2009/NĐ-CP và Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg. Nghị định 15/CP được xây dựng trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm quốc tế về quy trình thực hiện dự án, loại hợp đồng… đồng thời có những bổ sung phù họp với tình trạng, hoàn cảnh của Việt Nam, cụ thể:

    + Mở rộng lĩnh vực (Điều 4): Trước đây, đầu tư PPP chủ yếu nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng “cứng” thuộc các lĩnh vực như giao thông vận tải, năng lượng, cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải. Nghị định 15/CP đã bổ sung phạm vi dự án có thể làm PPP, bao gồm cả hoạt động cung cấp dịch vụ công trong các lĩnh vực xã hội như y tế, giáo dục, đào tạo, dạy nghề, văn hóa, thể thao và các lĩnh vực khác như hạ tầng thương mại, khu công nghiệp, hạ tầng nông nghiệp, nông thôn.

    + Bổ sung loại hợp đồng mới (Điều 3): Bên cạnh các loại hợp đồng truyền thống như BOT, BTO và BT, Nghị định 15/CP bổ sung một số loại hợp đồng mới như BOO, O&M, BTL và BLT. Các loại hợp đồng này có thể chia thành hai nhóm về hình thức thanh toán: (i) nhóm hợp đồng mà nhà đầu tư tố chức thu phí trực tiếp của người sử dụng hoặc tạo doanh thu thông qua hợp đồng bao tiêu sản phẩm (hợp đồng BOT, BTO, O&M, BOO); (ii) nhóm hợp đồng mà nguồn thu của nhà đầu tư được hình thành từ những khoản thanh toán định kỳ của cơ quan nhà nước (hợp đồng BTL, BLT).

    + Quy trình chuẩn bị dự án (Điều 9): Nghị định 15/CP yêu cầu dự án phải thực hiện nghiên cứu và chuẩn bị đầu tư bài bản trước khi lựa chọn nhà đầu tư. Quá trình nghiên cứu trải qua hai giai đoạn rõ nét: (i) lập đề xuất dự án đế đánh giá tính phù họp với hình thức đầu tư PPP; (ii) lập báo cáo nghiên cứu khả thi (BCNCKT) để đưa ra những giải pháp cụ thể cho quá trinh triển khai.

    Ảnh: Bệnh viện Gia An 115 là dự án PPP đầu tiên trong lĩnh vực y tế tại TP.HCM, hợp tác giữa Tập đoàn Hoa Lâm và Bệnh viện Nhân dân 115 (Tuấn Thụy)

    Nghị định 15/CP cũng phân biệt rõ hai phương thức nhà đầu tư tư nhân tiếp cận dự án PPP do Nhà nước lập và do nhà đầu tư đề xuất. Trường hợp nhà đầu tư đề xuất dự án, việc lựa chọn vẫn thông qua quy trình đấu thầu cạnh tranh (nhà đầu tư đề xuất dự án được hưởng mức ưu đãi 5% trong quá trình lựa chọn theo Điều 3 Nghị định số 30/2015/NĐ-CP về lựa chọn nhà đầu tư).

    + Quy định về vốn đầu tư công tham gia thực hiện dự án (Điều 11): Trong nhiều trường hợp, dự án với mục đích công không có đủ nguồn thu để đảm bảo khả năng hoàn vốn. Khi đó dự án cần tới sự tham gia của Nhà nước. Nghị định 15/CP quy định về mục đích sử dụng và thủ tục thu xếp nguồn vốn đầu tư công tham gia thực hiện dự án PPP nhằm đảm bảo tính khả thi về tài chính cho dự án. Theo đó, nguồn vốn này được sử dụng với ba mục đích: (i) góp vốn đế xây dựng công trình dự án; (ii) thanh toán cho nhà đầu tư; (iii) hỗ trợ xây dựng công trình phụ trợ, giải phóng mặt bằng, tổ chức bồi thường và tái định cư.

    + Quy định cụ thể về tổ chức chuẩn bị, thực hiện dự án: Nghị định 15/CP (Điều 8) quy định về cơ quan được đứng ra ký kết, thực hiện hợp đồng cũng như cơ chế ủy quyền ký hợp đồng. Ngoài ra, Điều 7 Nghị định đã quy định tổ chức bộ máy để thực hiện dự án PPP tại cấp Trung ương (như thành lập Ban Chỉ đạo về PPP) và cấp Bộ, ngành, địa phương (thành lập hoặc giao đơn vị làm đầu mối về PPP).

    Ngày 17/3/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định 30/2015/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Nghị định 30/CP) quy định chi tiết thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án PPP, trong đó có các điểm nổi bật:

    + Hình thức lựa chọn nhà đầu tư (Điều 9): Hai hình thức lựa chọn nhà đầu tư chủ yếu là đấu thầu rộng rãi và chỉ định thầu.

    + Phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu (Điều 27): Gồm 4 phương pháp là phương pháp giá dịch vụ, phương pháp vốn góp của Nhà nước, phương pháp lợi ích xã hội, lợi ích Nhà nước và phương pháp kết hợp.

    + Tăng cường công khai, minh bạch (Điều 4, 5): Nghị định quy định thời hạn, quy trình và phương tiện đăng tải thông tin liên quan đến lựa chọn nhà đầu tư như danh mục dự án, kế hoạch đấu thầu, thông báo mời thầu, kết quả lựa chọn nhà đầu tư. Theo đó, Báo Đấu thầu và Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia là hai phương tiện đãng tải thông tin đấu thầu một cách tập trung, minh bạch.

    + Bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu (Điều 2): Nghị định 30/CP hướng dẫn chi tiết các yêu cầu về bảo đảm cạnh tranh trong các cặp quan hệ: nhà đầu tư tham dự thầu và nhà thầu tư vấn tham gia các khâu của quá trình đấu thầu; nhà đầu tư tham dự thầu và cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bên mời thầu; nhà đầu tư tham dự thầu, nhà thầu tư vấn với một bên thứ ba.

    Tiếp theo đó, các Bộ, ngành đã ban hành 12 Thông tư hướng dẫn Nghị định 15/CP và Nghị định 30/CP, cụ thể:

    + Bộ KH&ĐT ban hành 03 Thông tư gồm: Thông tư số 06/2016/TT-BKHĐT quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định 15/CP, Thông tư số 02/2016/TT-BKHĐT về lựa chọn sơ bộ dự án, lập, thẩm định, phê duyệt đề xuất dự án và báo cáo nghiên cứu khả thi, Thông tư số 15/2016/TT-BKHĐT về lập hồ sơ mời sơ tuyển, hồ sơ mời thầu dự án PPP;

    + Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công Thương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành các Thông tư hướng dẫn nội dung về PPP thuộc ngành, lĩnh vực minh quản lý, bao gồm: Thông tư số 86/2015/TT-BGTVT, Thông tư số 23/2015/TT-BCT; Thông tư số 38/2015/TT-BCT; Thông tư số 21 /2016/TT-BTTTT; Thông tư số 14/2017/TT-BNNPTNT.

    + Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn về quản lý tài chính dự án PPP tại Thông tư số 55/2016/TT-BTC, Thông tư số 75/2017/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư số 55/2016/TT-BTC, Thông tư số 30/2018/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư sổ 75/2017/TT-BTC.

    + Riêng về cơ chế thanh toán dự án BT, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định sổ 23/2015/QĐ-TTg ngày 26/6/2015 và Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 183/2015/TT-BTC hướng dẫn Quyết định nêu trên.

    Nhằm tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về PPP, ngày 04/5/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 63/2018/NĐ-CP về PPP (sau đây gọi tắt là Nghị định 63/CP) với một số nội dung quy định mới để khắc phục tối đa các tồn tại, hạn chế, các rào cản ở cấp Nghị định, trong đó có một số điểm nổi bật như:

    + Quy định rõ về quy trình, thủ tục thực hiện dự án PPP nói chung và có quy trình riêng đối với dự án sử dụng công nghệ cao; quy định quy trình chặt chẽ đối với dự án BT. Bên cạnh đó, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP đã được quy định rõ tại Nghị định theo từng loại dự án và nhu cầu sử dụng nguồn lực của Nhà nước (Trung ương hay địa phương) trên tinh thần đẩy mạnh phân cấp, tăng tính trách nhiệm của người đứng đầu nhằm khắc phục quy định vay mượn trước đây (có khi tham chiếu đến quy định đầu tư công thuần túy hoặc đầu tư tư nhân thuần túy mà chưa có quy định rõ về cơ chế hợp tác công tư).

    + Bổ sung nguồn vốn Nhà nước tham gia dự án PPP từ các nguồn chi thường xuyên, nguồn thu từ hoạt động cung cấp dịch vụ công (ngoài vốn đầu tư công) để phù hợp với tính chất của các loại hợp đồng PPP và tăng cơ hội triển khai dự án PPP tại các đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ về tài chính (ví dụ điển hình là các bệnh viện công lập đang quá tải…).

    + Quy định chặt chẽ hơn đối với dự án BT: (i) dự án BT chỉ được tổ chức lựa chọn nhà đầu tư khi đã có thiết kế và dự toán được phê duyệt; (ii) quỹ đất dự kiến thanh toán cho nhà đầu tư phải được định rõ ngay trong giai đoạn lập báo cáo nghiên cứu khả thi – với yêu cầu phải được phê duyệt quy hoạch xây dựng tỷ lệ 1/2.000 hoặc 1/500 (nếu có).

    + Bãi bỏ thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư dự án PPP: Do sau khi lựa chọn và đàm phán thành công hợp đồng thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư/doanh nghiệp dự án PPP sẽ ký kết hợp đồng (BOT, BT, BTL, BLT…) làm căn cứ triển khai thực hiện nên việc duy trì thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư là không cần thiết; việc lược bỏ thủ tục này góp phần giảm thời gian, thủ tục và chi phí cho nhà đầu tư.

    + Minh bạch nội dung cơ bản hợp đồng PPP đã được ký kết: Nghị định quy định thời gian và các nội dung thông tin cơ bản hợp đồng PPP phải được công khai để tăng tính minh bạch, tính giải trình và đặc biệt làm tăng khả năng giám sát của người dân, xã hội.

    + Ngoài ra, Nghị định 63/CP đã rà soát, sửa đổi, bổ sung khá nhiều quy định về: lĩnh vực đầu tư, hợp đồng dự án, tăng cường việc phân cấp, yêu cầu về vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư, yêu cầu về thời điếm chuyển nhượng dự án; yêu cầu lấy ý kiến cộng đồng về tác động của dự án…

    Để tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về PPP, ngày 21/10/2017, ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 437/NQ-ƯBTVQH14 về một số nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về đầu tư và khai thác các công trình giao thông theo hình thức hợp đồng BOT. Tại Nghị quyết này, ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp, trong đó bao gồm “Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT đặt trong tổng thể hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo hình thức PPP với định hướng nghiên cứu xây dựng, trình Quốc hội ban hành Luật tạo cơ sở pháp lý cao, thống nhất, đồng bộ cho hình thức đầu tư này”.

    Thực hiện nhiệm vụ nêu trên, Chính phủ đã chỉ đạo, giao Bộ KH&ĐT chủ trì nghiên cứu, xây dựng Luật về PPP. Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật PPP đã được Bộ KH&ĐT hoàn thiện, được Chính phủ thông qua tại Nghị quyết số 54/NQ-CP ngày 10/5/2018.

    Ngày 13/12/2018, ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có Nghị quyết số 613/2018/ƯBTVQH14 về việc điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019. Theo đó, Luật về PPP dự kiến được trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2019).

    Quy định pháp luật gián tiếp điều chỉnh hoạt động đầu tư theo hình thức PPP

    Ngoài hành lang pháp lý trực tiếp quy định về dự án PPP thì Quốc hội, Chính phủ đã ban hành các quy định liên quan như pháp luật về đầu tư, đất đai, xây dựng… quy định một số nội dung liên quan đến PPP, cụ thể:

    – Pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công:

    Luật Quản lý, sử dụng tài sản công (Điều 13) quy định cho phép việc sử dụng tài sản công để tham gia dự án đầu tư theo hình thức PPP của các cơ quan nhà nước. Nội dung chi tiết về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quyết định sử dụng tài sản công để tham gia dự án PPP và chế độ báo cáo được hướng dẫn chi tiết tại Nghị định số 151/2017/NĐ-CP (Chương II Mục 4). Đầu tư theo hình thức PPP là một trong các hình thức đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước (Luật Quản lý, sử dụng tài sản công Đỉều 30). Bên cạnh đó, Điều 44 và Điều 117 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công cũng quy định các nguyên tắc về việc sử dụng tài sản công để thanh toán cho nhà đầu tư khi thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình theo hình thức hợp đồng BT.

    Bên cạnh đó, việc sử dụng tài sản công để tham gia vào dự án PPP hoặc thanh toán cho dự án BT tại các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp cũng đã được quy định tại Luật Quản lý, sử dụng tài sản công (Điều 68); đặc biệt, việc sử dụng tài sản công tại cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam trong dự án PPP, xây dựng trụ sở làm việc theo hình thức PPP được quy định chi tiết tại Nghị định số 165/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 (Điều 10 và Điều 11).

    – Pháp luật về đất đai:

    Luật Đất đai số 45/2013/QH13 (Khoản 3 Điều 155) đã có quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử đụng đất và trách nhiệm Nhà nước giao cho nhà đầu tư quản lý diện tích đất để thực hiện dự án BT, BOT, BOT và các hình thức đầu tư khác theo quy định của pháp luật về đầu tư.

    Nghị định số 45/2014/NĐ-CP về thu tiền sử dụng đất (Điều 4 Khoản 2), Nghị định số 46/2014/NĐ-CP về tiền thuê đất, thuê mặt nước (Điều 23) quy định cơ chế nhà đầu tư ứng trước tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng và khoản tiền này được trừ vào tiền sử dụng đất, tiền thuê đất mà nhà đầu tư phải nộp.

    – Pháp luật về xây dựng:

    Luật Xây dựng số 50/2014/QH13 chỉ đề cập đến dự án PPP ở hai nội dung bao gồm: (1) Định nghĩa chủ đầu tư trong hợp đồng PPP là doanh nghiệp dự án do nhà đầu tư thành lập; (2) Thẩm quyền thẩm định thiết kế cơ sở dự án PPP có vốn Nhà nước tham gia thực hiện dự án là cơ quan chuyên môn về xây dựng theo phân cấp.

    Nghị định số 59/2015/NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng (Điều 3) quy định dự án PPP có cấu phần xây dựng được quản lý như đối với dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài ngân sách, theo đó một số nội dung như thiết kế, dự toán xây dựng của nhà đầu tư (sau khi đã ký kết hợp đồng) phải được cơ quan chuyên môn về xây dựng thấm định.

    – Pháp luật về ngân sách nhà nước:

    Việc sử dụng vốn ngân sách nhà nước trong dự án PPP tuân thủ theo các quy định chung của pháp luật về ngân sách nhà nước; chưa có quy định dành riêng cho dự án PPP.

    – Pháp luật liên quan đến ưu đãi, hỗ trợ đầu tư:

    Về ưu đãi đầu tư, Luật Đầu tư năm 2005 và được sửa đổi năm 2014 đều có quy định về nội dung ưu đãi đối với nhà đầu tư. Căn cứ vào đặc điểm, yêu cầu từng dự án cụ thể, từng ngành nghề, địa bàn đầu tư, nhà đầu tư sẽ được áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn mức thuế suất thông thường có thời hạn hoặc toàn bộ thời gian thực hiện dự án đầu tư; miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp; miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định; nguyên liệu, vật tư, linh kiện để thực hiện dự án đầu tư; miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất. Những ưu đãi này góp phần tích cực tác động các nhà đầu tư khi họ đưa ra quyết định đầu tư dự án.

    Ngoài ra, đối với từng ngành, lĩnh vực, một hệ thống các quy định hỗ trợ đầu tư đã được ban hành:

    + Đối với lĩnh vực khuyến khích thực hiện theo hình thức xã hội hóa (y tế, văn hóa, giáo dục, môi trường): Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008, Nghị định số 59/2014/NĐ-CP ngày 16/6/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 69/2008/NĐ-CP quy định về chính sách xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực này; theo đó, nhà đầu tư khi tham gia đầu tư vào các lĩnh vực này sẽ được ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp (từ 25% xuống còn 10%).

    + Đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn: Chính phủ đã ban hành các Nghị định số 61/2010/NĐ-CP, Nghị định số 210/2013/NĐ-CP (thay thế Nghị định sồ 61/2010/NĐ-CP), Nghị định số 57/2018/NĐ-CP về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Theo đó, khi doanh nghiệp thực hiện đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn sẽ được hưởng các chính sách ưu đãi về đất đai, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ phát triển thị trường, hỗ trợ dịch vụ tư vấn, hỗ trợ áp dụng khoa học công nghệ, áp dụng cước phí vận tải.

    Ảnh minh họa: sưu tầm

    + Đối với lĩnh vực cấp nước sạch nông thôn: Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 131/2009/QĐ-TTg ngày 02/11/2009 về chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư và quản lý, khai thác công trình cấp nước sạch nông thôn, liên bộ Bộ NN&PTNT, Bộ Tài chính, Bộ KH&ĐT đã có Thông tư số 37/2014/TTLT-BNNPTNT-BTC-BKHĐT quy định về các chính sách ưu đãi này. Cụ thể bao gồm chính sách về đất đai, về thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và huy động vốn, hỗ trợ giá tiêu thụ nước sạch. Ngoài thực hiện chính sách thu hút nhà đầu tư, việc đưa ra các chính sách ưu đãi, hỗ trợ này còn đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững trong nông nghiệp, nông thôn.

    + Đối với lĩnh vực thoát nước, xử lý nước thải: Chính phủ ban hành Nghị định số 80/2018/NĐ-CP về thoát nước và xử lý nước thải, trong đó Điều 38 quy định về cơ chế ngân sách nhà nước cấp bù chi phí thoát nước, xử lý nước thải cho nhà đầu tư trong trường hợp giá dịch vụ xử lý nước thải thu từ người sử dụng (do UBND cấp tỉnh phê duyệt) chưa tính đúng, tính đủ chi phí của nhà đầu tư.

    + Đối với lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng KCN, KKT: Từ năm 2008 đến năm 2018, Chính phủ đã lần lượt ban hành các Nghị định số 29/2008/NĐ-CP, Nghị định số 164/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung Nghị định số 29/2008/NĐ-CP), Nghị định số 114/2015/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung Nghị định số 29/2008/NĐ-CP), Nghị định số 82/2018/NĐ-CP. Theo đó, các Nghị định này đều quy định đầu tư theo hình thức PPP (trước năm 2018 là các loại hợp đồng BOT, BT, BTO) là một trong các hình thức thu hút vốn phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội khu kinh tế.

    – Pháp luật về sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển:

    Chính phủ đã ban hành Nghị định 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu và Nghị định số 106/2008/NĐ-CP ngày 19/9/2008 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 151/2006/NĐ-CP. Theo quy định tại các Nghị định này, việc sử dụng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước chỉ được áp dụng đối với các dự án thuộc một số ngành quan trọng và chương trình kinh tế lớn có hiệu quả kinh tế – xã hội, có khả năng hoàn trả vốn vay do Chính phủ quy định bao gồm các dự án xây dựng công trình cấp nước phục vụ sinh hoạt; các dự án xử lý nước thải, rác thải tại khu đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghệ cao, bệnh viện và các cụm công nghiệp làng nghề; dự án xây dựng quỹ nhà tập trung cho công nhân lao động làm việc trong khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, ký túc xá sinh viên…

    – Pháp luật về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA):

    Các văn bản điều chỉnh hoạt động này lần lượt là Nghị định 17/2001/NĐ-CP ngày 04/5/2001, Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006, Nghị định số 38/2013/NĐ-CP ngày 23/4/2013, Nghị định số 16/2016/NĐ-CP ngày 16/3/2016, Nghị định số 132/2018/NĐ-CP ngày 01/10/2018 và các Thông tư hướng dẫn.

    Ngoài ra, việc thực hiện dự án PPP cũng tuân thủ các pháp luật chuyên ngành khác có liên quan trong từng lĩnh vực như pháp luật về bảo vệ tài nguyên và môi trường, về ngoại hối (đối với các dự án có nhà đầu tư nước ngoài).

    (Nguồn: Báo cáo số 25/BC-CP ngày 30/01/2019 của Chính phủ về tổng kết tình hình thực hiện dự án PPP)

    Ra mắt tool tính Thuế chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam

    Kính chào Quý khách hàng,

    Caselaw Việt Nam trân trọng thông báo tính năng mới: Tính thuế Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam tại https://caselaw.vn/tinh-thue-chong-ban-pha-gia.

    Tính năng Tính thuế Chống bán phá giá sẽ là công cụ hữu ích giúp cho các nhà xuất khẩu nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam thực hiện các công việc vốn trước đây đòi hỏi nhiều thời gian để nghiên cứu quy định pháp luật và tham vấn luật sư:

    (i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam; 

    (ii) Biết được mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và Tính số tiền thuế Chống bán phá giá;

    (iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS;

    Theo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 ngày 06/04/2016 của Quốc Hội, Thuế chống bán phá giá là thuế nhập khẩu bổ sung được áp dụng trong trường hợp hàng hóa bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong. 

    Trang dữ liệu thông tin pháp lý về Mã HS của Caselaw Việt Nam cập nhật các mã HS hàng hóa bị áp thuế chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam. Tính đến tháng 12/2020, Việt Nam đã áp thuế chống bán phá giá đối 7 nhóm sản phẩm với 74 mã HS hàng hóa có xuất xứ từ 6 quốc gia: Trung Quốc, Đài Loan, Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan.

    (i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam

    Để biết mã HS của hàng hóa nhập khẩu có bị đánh thuế Chống bán phá giá hay không, Quý khách hàng truy cập trang Tính Thuế chống bán phá giá. Sau đó nhập mã HS 8 số và bấm kiểm tra.


    Kết quả kiểm tra sau khi nhập mã HS 8 số:

    (ii) Xem mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và tính số tiền thuế Chống bán phá giá:


    Dữ liệu tính thuế và công thức tính thuế Chống bán phá giá được các chuyên gia cố vấn của Caselaw Việt Nam tổng hợp chính xác dựa trên các quyết định về áp thuế chống bán phá giá của Bộ Công thương. Sau khi nhập đủ các thông tin vào các ô dữ liệu và bấm nút tính thuế, bạn sẽ biết được chính xác số thuế Chống bán phá giá phải nộp. Kết quả hiển thị đi kèm với các thông tin về: mức thuế suất, thời gian áp thuế, quốc gia bị áp thuế và các công ty xuất khẩu. 

    (iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS:

    Tại trang thông chi tiết của mỗi mã HS, ví dụ như mã 29224220, ngoài thông tin về các loại thuế suất như: thuế VAT, thuế nhập khẩu ưu đãi, thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các hiệp định FTA(s), Quý khách hàng sẽ được xem thêm thuế Chống bán phá giá theo từng thời gian, quốc gia xuất khẩu, công ty xuất khẩu.


    Caselaw Việt Nam luôn mong muốn mang đến cho Quý khách hàng các tiện ích nhằm hỗ trợ hiệu quả cho công việc. 

    Chúng tôi rất vui khi được đồng hành cùng Quý khách hàng.

    Trân trọng,

    Caselaw Việt Nam Team

    Các mã HS hàng hóa bị áp thuế chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam (cập nhật đến tháng 12/2020)

    Trang dữ liệu thông tin pháp lý về Mã HS của Caselaw Việt Nam cập nhật các mã HS hàng hóa bị áp thuế chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam. Tính đến tháng 12/2020, Việt Nam đã áp thuế chống bán phá giá đối 8 nhóm sản phẩm với 94 mã HS hàng hóa có xuất xứ từ 6 quốc gia: Trung Quốc, Đài Loan, Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan.


    A) HÀNG HÓA XUẤT XỨ TỪ TRUNG QUỐC

    1) Nhóm sản phẩm bột ngọt (tiếng Anh: Some Monosodium Gluamate Products)

    - Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

    - Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá: 29224220 - Muối natri của axit glutamic (MSG)

    - Mức thuế chống bán phá giá: từ 3.529.958 đồng/tấn~ 6.385.289 đồng/tấn

    - Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 23 tháng 7 năm 2020 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

    - Văn bản: Quyết định số 1933/QĐ-BCT ngày 22/07/2020 Về áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức đối với sản phẩm bột ngọt có xuất xứ từ Trung Hoa và In-đô-nê-xi-a


    2) Nhóm sản phẩm plastic và sản phẩm bằng plastic được làm từ các polyme từ propylen (tiếng Anh: Plastic products and Biaxially Oriented Polypropylene (BOPP) films)

    - Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

    - Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

    - Mức thuế chống bán phá giá: từ 9,05%~23,71%

    - Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 23 tháng 7 năm 2020 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

    - Văn bản: Quyết định số 1900/QĐ-BCT ngày 20/07/2020 Về áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức đối với một số sản phẩm plastic và sản phẩm bằng plastic được làm từ các polyme từ propylen có xuất xứ từ Trung Hoa, Thái Lan và Ma-lai-xi-a


    3) Nhóm sản phẩm Nhôm, hợp kim hoặc không hợp kim, dạng thanh, que và hình (tiếng Anh: Aluminum, alloy or nonalloy which are in bar, stick and shape form)

    - Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

    - Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

    - Mức thuế chống bán phá giá: từ 2,49%~35,58%

    - Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 28 tháng 9 năm 2019 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

    - Văn bản: Quyết định số 2942/QĐ-BCT ngày 28/09/2019 Áp dụng biện pháp chống bán phá giá chính thức đối với sản phẩm nhôm có xuất xứ từ Trung Hoa


    4) Nhóm sản phẩm Thép phủ màu (Thép hợp kim hoặc không hợp kim được cán phẳng, sơn, phủ vecni, phủ plastic hoặc phủ loại khác) (tiếng Anh: Flat-rolled alloy or nonalloy steel products, varnish painted or scanned or coated with plastics or other covers)

    - Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

    - Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

    - Mức thuế chống bán phá giá: từ 2,53%~34,27%

    - Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 24 tháng 10 năm 2019 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

    - Văn bản: Quyết định số 3198/QĐ-BCT ngày 24/10/2019 Về áp dụng thuế chống bán phá giá đối với một số sản phẩm thép hợp kim hoặc không hợp kim được cán phẳng, được sơn có xuất xứ từ Trung Hoa và Đại Hàn Dân quốc


    5) Nhóm sản phẩm Thép hình chữ H (tiếng Anh: H-shaped steel)

    - Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá (giai đoạn Rà soát lần thứ 1)

    - Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

    - Mức thuế chống bán phá giá: từ 19,30%~29,17%

    - Thời hạn áp dụng: từ 25 tháng 10 năm 2020 đến ngày 05 tháng 9 năm 2022 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

    - Văn bản: Quyết định số 3024/QĐ-BCT ngày 20/11/2020 của Bộ trưởng Bộ Công thương về kết quả rà soát lần thứ nhất việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với sản phẩm thép hình chữ H


    6) Nhóm sản phẩm Thép mạ (tiếng Anh: Plated Steel)

    - Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá (giai đoạn rà soát lần thứ 1)

    - Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

    - Mức thuế chống bán phá giá: từ 3,17%~38,34%

    - Thời hạn áp dụng: từ 25 tháng 10 năm 2020 đến ngày 14 tháng 4 năm 2022 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

    - Văn bản: Quyết định số 3023/QĐ-BCT ngày 20/11/2020 của Bộ trưởng Bộ Công thương về kết quả rà soát lần thứ nhất việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với sản phẩm thép mạ


    7) Nhóm sản phẩm Thép không gỉ cán nguội (tiếng Anh: Cold-rolled stainless Steel)

    - Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá (giai đoạn rà soát lần thứ 2)

    - Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

    - Mức thuế chống bán phá giá: từ 17,94%~31,85%

    - Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 26 tháng 10 năm 2019 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

    - Văn bản: Quyết định số 3162/QĐ-BCT ngày 21/10/2019 Kết quả rà soát cuối kỳ việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với một số sản phẩm thép không gỉ cán nguội có xuất xứ từ Trung Hoa, In-đô-nê-xi-a, Ma-lay-xi-a và Đài Loan


    8) Nhóm sản phẩm Thép cán nguội (ép nguội) dạng cuộn hoặc tấm

    - Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

    - Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

    - Mức thuế chống bán phá giá: từ 4,43%~25,52%

    - Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 28 tháng 10 năm 2020 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

    - Văn bảnQuyết định số 3390/QĐ-BCT ngày 21/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Công thương về áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức đối với sản phẩm thép cán nguội (ép nguội) dạng cuộn hoặc tấm có xuất xứ từ Trung Hoa


    B) HÀNG HÓA CÓ XUẤT XỨ TỪ ĐÀI LOAN:

    9) Nhóm sản phẩm Thép không gỉ cán nguội (tiếng Anh: Cold-rolled stainless Steel)

    - Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá (giai đoạn rà soát lần thứ 2)

    - Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

    - Mức thuế chống bán phá giá: 37,29%

    - Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 26 tháng 10 năm 209 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

    - Văn bản: Quyết định số 3162/QĐ-BCT ngày 21/10/2019 Kết quả rà soát cuối kỳ việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với một số sản phẩm thép không gỉ cán nguội có xuất xứ từ Trung Hoa, In-đô-nê-xi-a, Ma-lay-xi-a và Đài Loan


    C) HÀNG HÓA CÓ XUẤT XỨ TỪ THÁI LAN

    10) Nhóm sản phẩm plastic và sản phẩm bằng plastic được làm từ các polyme từ propylen (tiếng Anh: Plastic products and Biaxially Oriented Polypropylene (BOPP) films)

    - Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

    - Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

    - Mức thuế chống bán phá giá: từ 17,30%~20,35%

    - Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 23 tháng 7 năm 2020 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

    - Văn bản: Quyết định số 1900/QĐ-BCT ngày 20/07/2020 Về áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức đối với một số sản phẩm plastic và sản phẩm bằng plastic được làm từ các polyme từ propylen có xuất xứ từ Trung Hoa, Thái Lan và Ma-lai-xi-a


    D) HÀNG HÓA CÓ XUẤT XỨ TỪ HÀN QUỐC

    11) Nhóm sản phẩm Thép phủ màu (Thép hợp kim hoặc không hợp kim được cán phẳng, sơn, phủ vecni, phủ plastic hoặc phủ loại khác) (tiếng Anh: Flat-rolled alloy or nonalloy steel products, varnish painted or scanned or coated with plastics or other covers)

    - Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

    - Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

    - Mức thuế chống bán phá giá: từ 4,71%~19,25%

    - Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 24 tháng 10 năm 2019 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

    - Văn bản: Quyết định số 3198/QĐ-BCT ngày 24/10/2019 Về áp dụng thuế chống bán phá giá đối với một số sản phẩm thép hợp kim hoặc không hợp kim được cán phẳng, được sơn có xuất xứ từ Trung Hoa và Đại Hàn Dân quốc


    12) Nhóm sản phẩm Thép mạ (tiếng Anh: Plated Steel)

    - Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá (giai đoạn rà soát lần thứ 1)

    - Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

    - Mức thuế chống bán phá giá: từ 7,02%~19,00%

    - Thời hạn áp dụng: từ 25 tháng 10 năm 2020 đến ngày 14 tháng 4 năm 2022 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

    - Văn bản: Quyết định số 3023/QĐ-BCT ngày 20/11/2020 của Bộ trưởng Bộ Công thương về kết quả rà soát lần thứ nhất việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với sản phẩm thép mạ


    F) HÀNG HÓA CÓ XUẤT XỨ TỪ INDONESIA

    13) Nhóm sản phẩm bột ngọt (tiếng Anh: Some Monosodium Gluamate Products)

    - Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

    - Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá: 29224220 - Muối natri của axit glutamic (MSG)

    - Mức thuế chống bán phá giá: từ 3.529.958 đồng/tấn~ 6.385.289 đồng/tấn

    - Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 23 tháng 7 năm 2020 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

    - Văn bản: Quyết định số 1933/QĐ-BCT ngày 22/07/2020 Về áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức đối với sản phẩm bột ngọt có xuất xứ từ Trung Hoa và In-đô-nê-xi-a


    14) Nhóm sản phẩm Thép không gỉ cán nguội (tiếng Anh: Cold-rolled stainless Steel)

    - Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá (giai đoạn rà soát lần thứ 2)

    - Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

    - Mức thuế chống bán phá giá: từ 10,91%~25,06%

    - Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 26 tháng 10 năm 2019 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

    - Văn bản: Quyết định số 3162/QĐ-BCT ngày 21/10/2019 Kết quả rà soát cuối kỳ việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với một số sản phẩm thép không gỉ cán nguội có xuất xứ từ Trung Hoa, In-đô-nê-xi-a, Ma-lay-xi-a và Đài Loan


    I) HÀNG HÓA CÓ XUẤT XỨ TỪ MALAYSIA

    15) Nhóm sản phẩm plastic và sản phẩm bằng plastic được làm từ các polyme từ propylen (tiếng Anh: Plastic products and Biaxially Oriented Polypropylene (BOPP) films)

    - Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá

    - Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

    - Mức thuế chống bán phá giá: từ 18,87%~23,42%

    - Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 23 tháng 7 năm 2020 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

    - Văn bản: Quyết định số 1900/QĐ-BCT ngày 20/07/2020 Về áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức đối với một số sản phẩm plastic và sản phẩm bằng plastic được làm từ các polyme từ propylen có xuất xứ từ Trung Hoa, Thái Lan và Ma-lai-xi-a  


    16) Nhóm sản phẩm Thép không gỉ cán nguội (tiếng Anh: Cold-rolled stainless Steel)

    - Tình trạng: Chính thức áp dụng thuế chống bán phá giá (giai đoạn rà soát lần thứ 2)

    - Các mã HS bị áp thuế chống bán phá giá:

    - Mức thuế chống bán phá giá: từ 17,94%~31,85%

    - Thời hạn áp dụng: 05 năm kể từ ngày 26 tháng 10 năm 2019 (có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn căn cứ trên kết quả rà soát việc áp thuế)

    - Văn bản: Quyết định số 3162/QĐ-BCT ngày 21/10/2019 Kết quả rà soát cuối kỳ việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với một số sản phẩm thép không gỉ cán nguội có xuất xứ từ Trung Hoa, In-đô-nê-xi-a, Ma-lay-xi-a và Đài Loan

    Một số chia sẻ hữu ích về các vấn đề liên quan đến học luật, hành nghề luật

    1. Để gia tăng cơ hội về việc làm khi ra trường, sinh viên nên:

    (i) nắm vững các kiến thức cơ bản về pháp lý, ví dụ như hiểu được hệ thống văn bản pháp luật, phân biệt được văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật, tra cứu văn bản, xác định đúng luật, quy phạm pháp luật áp dụng và phân tích được quy định đó;

    (ii) trau dồi các kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, làm việc với cơ quan nhà nước;

    (iii) rèn giũa tính cẩn thận;

    (iv) rèn luyện kỹ năng research, phân tích.

    (v) thành thạo kỹ năng office (Word – thuần thục; Excel và Powerpoint có thể ở mức cơ bản). Đối với word, các bạn cần nắm rõ các kỹ năng nâng cao như trackchange, compare, tạo table of content, cross-reference, headings, …

    (vi) chuẩn bị tiếng anh tốt; nếu giỏi cả 4 kỹ năng thì quá tốt, còn không, hãy cố gắng thành thạo trong kỹ năng đọc và viết. Bạn sẽ được yêu cầu đọc tài liệu bằng tiếng Anh, viết các thư tư vấn, phân tích pháp lý bằng tiếng Anh trong công việc. Ngoài ra, bạn sẽ được yêu cầu dịch các tài liệu từ Anh sang Việt và ngược lạị.

    2. Những yếu tố cần thiết khi bắt đầu làm ở một Công ty Luật là gì?

    Với 1 fresher, có một số yếu tố cần thiết để làm việc tốt ở 1 law firm:

    (i) Tinh thần và khả năng tự học hỏi: Cường độ và tốc độ công việc ở law firm khá khắc nghiệt, vì vậy để có một người cầm tay chỉ việc cho em sẽ là không có. Em sẽ cần tối đa khả năng tự học hỏi của mình, từ quan sát, từ rút kinh nghiệm những feedback của supervisor;

    (ii) Sẵn sàng chịu áp lực từ khối lượng công việc lớn: chắc mọi người đều hiểu áp lực công việc của law firm là thế nào. Hãy chuẩn bị trước tinh thần làm việc overtime, over the weekend or even over-night;

    (iii) tư duy phản biện: nôm na là tư duy từ cả 2 phía, hay còn gọi là critical thinking. Không nhìn từ một phía để đánh giá 1 vấn đề; và 

    (iv) Tiếng anh ở mức khá, nếu làm việc ở law firm lớn.

    3. Những điều nên và không nên làm khi nhận và xử lý công việc từ cấp trên:

    Đối với công việc từ cấp trên, việc đầu tiên bạn cần thể hiện là thái độ cầu thị và nghiêm túc khi nhận yêu cầu công việc. Khi bạn nghe qua không rõ hoặc chưa hiểu vấn đề nào, nếu cấp trên đang có thời gian rảnh, bạn có thể trao đổi trực tiếp. Nếu công việc đang gấp, bạn có thể nghiên cứu trước và vạch ra những câu hỏi cần trao đổi với cấp trên để hoàn thành công việc. Tất nhiên với mỗi người cấp trên có cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau, và tư duy của bạn rất quan trọng, nhưng thái độ cầu thị và ham học hỏi thường sẽ là thang đánh giá của cấp trên đối với những bạn vừa ra trường đi làm. Mặt khác, em có thể trực tiếp hỏi xin thêm việc để được tham gia vào nhiều công việc khác nhau (tất nhiên là vẫn đảm bảo không ảnh hưởng đến deadlines những công việc khác). 

    Liên quan đến deadline, bạn nên hỏi rõ về timeline. Bạn cần biết rõ khi nào cần báo cáo kết quả và liệu timeline đó có khả thi với bạn không. Nếu không, bạn cần nói rõ với cấp trên để xem xét dời deadline. Tuyệt đối không được nhận khi biết mình không thể hoàn thành đúng deadline, điều này sẽ gây khó khăn cho cấp trên và có thể làm lỡ việc với khách hàng. Nếu giữa chừng bạn cảm thấy không thể đúng hạn, bạn cần thảo luận lại với cấp trên để có hướng xử lý. Không nên im lặng rồi sau đó trễ deadline.

    4. Trong quá trình hành nghề luật bắt đầu từ vị trí paralegal đến khi thành associate, anh chị đã gặp những khó khăn nào?

    Trong giai đoạn đầu khi đi từ fresh graduate đến khi trở thành mid level, ai cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn và mỗi môi trường công ty có những khó khăn đặc thù nhất định. Tuy nhiên, bạn hãy hiểu rằng mỗi khó khăn như vậy là một bài học để bạn phát triển bản thân mình. Có một thực tế là kinh nghiệm và kỹ năng tích lũy được sau mỗi lần gặp sai lầm và sửa chữa sẽ nhiều hơn là áp dụng một công thức duy nhất để làm cho xong việc. 

    Một điều nữa mình muốn chia sẻ là mới đi làm và trong giai đoạn học hỏi kinh nghiệm trong nghề luật thì tuyệt đối không ngại việc và không ngại rắc rối. Hãy nghĩ rằng nghề luật sư chính là mua rắc rối của khách hàng vào mình để giải quyết, nên bản thân bạn cần giữ thái độ bình tĩnh với các rắc rối và luôn tin rằng sẽ có cách giải quyết cho mọi vấn đề.

    Mỗi người có mỗi trải nghiệm khác nhau, tuy nhiên đối với nghề luật sư, theo mình, kim chỉ nam là “Tư duy và giải pháp”. Tư duy là thứ em sẽ cần để nhìn nhận và xác định vấn đề, đồng thời luôn cố gắng tìm ra giải pháp cho khách hàng, đừng chỉ đưa văn bản pháp luật mà không có bất kỳ một kết luận hay giải pháp nào. Thứ khách hàng nhìn vào hầu như chỉ là câu kết luận và giải pháp mà em cung cấp cho họ. 

    (Tác giả: Luật sư Trần Viết Quân - http://vietnamlawmentor.com)

    7 mẫu hợp đồng được sử dụng để thực thi quyền sử dụng đất (đặt cọc, góp vốn, cho mượn, chuyển nhượng, thế chấp, hợp tác kinh doanh...)

    Thỏa Thuận Đặt Cọc Mua Đất Nông Nghiệp


    Hợp Đồng Hợp Tác Kinh Doanh Góp Vốn Bằng Giá Trị Quyền Sử Dụng Đất


    Hợp Đồng Chuyển Nhượng Quyền Sử Dụng Đất Và Tài Sản Gắn Liền Trên Đất (Xây Dựng Cửa Hàng Xăng Dầu)


    Hợp Đồng Cho Mượn Đất


    HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở (MS 01)


    HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC Chuyển nhượng quyền sử dụng đất (MS 01)


    HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP Quyền sử dụng đất và căn hộ (MS 01)

    LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP CHO LUẬT SƯ: Khác biệt giữa làm việc tại HÃNG LUẬT và PHÁP CHẾ? (Phần 2/2)

    Tác giả: Luật sư Trịnh Ngọc Tuấn
    Facebook: The skilled lawyers - Kỹ năng luật sưhttps://www.facebook.com/theskilledlawyers/   

    ----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

    (Những bạn nào đã đọc phần 1 có thể đọc tiếp trên post này, những bạn nào chưa đọc có thể xem phần 1 tại: https://caselaw.vn/phap-che/lua-chon-nghe-nghiep-cho-luat-su-khac-biet-giua-lam-viec-tai-hang-luat-va-phap-che-phan-1)

    6. THĂNG TIẾN

    Trong hãng luật sẽ có nhiều thứ bậc để thăng tiến: trợ lý luật sư (paralegal/legal assistant), luật sư cấp dưới (junior associate), luật sư (associate), luật sư cấp cao (senior associate), luật sư thành viên (partner), luật sư điều hành (managing partner)…Bên cạnh đó con đường cấp bậc cũng khá hấp dẫn nếu bạn thể hiện tốt bởi đó là môi trường dễ dàng hơn để đo đếm được hiệu quả kinh tế bạn mang lại cho văn phòng. 

    Phần lớn các phòng pháp chế thường được cấu trúc thành hai loại vị trí, điều hành và nhân viên. Bạn hiểu việc thăng tiến sẽ như thế nào rồi chứ. Đừng nhầm lẫn rằng tôi nói bạn sẽ không có cơ hội để được thăng tiến, tôi chỉ muốn nói là nó ít hơn so với trong hãng luật. Về cơ bản, đó là một cái thang ít bậc. Và môi trường pháp chế cũng khó đong đếm hiệu quả của từng nhân viên hơn.

    7. CHUYỂN ĐỔI MÔI TRƯỜNG

    Việc một luật sư tại hãng luật chưa hề có kinh nghiệm pháp chế chuyển sang làm tại ban pháp chế sẽ dễ dàng hơn nhiều so với điều ngược lại. Tại sao? Lý do như đã nói đến ở trên, giờ làm việc, phong cách làm việc, chuyên môn…v.v. Tổng quát lại thì những kinh nghiệm có được tại hãng luật có thể áp dụng khi chuyển sang môi trường pháp chế một cách dễ dàng hơn. Điều này không có nghĩa là bạn không thể vào một hãng luật sau một thời gian dài chỉ làm pháp chế. Nó chỉ có nghĩa là bạn sẽ gặp nhiều khó khăn để chứng tỏ sự xứng đáng của mình với nhà tuyển dụng của hãng luật, những người thường sẽ ưu tiên cho các ứng viên có kinh nghiệm làm việc tại hãng luật tương tự.

    8. DANH TIẾNG

    Bạn thường nhìn thấy tên ai trên truyền thông, báo chí, bảng xếp hạng các luật sư như Legal 500, chambers and partners, Asia law, who is who legal, hay IRFL 1000 …v.v Đúng vậy, đó là các luật sư tại các hãng dẫn đầu và những luật sư có văn phòng riêng. Vậy, có phải vì những luật sư đó có chuyên môn vượt trội so với những đồng nghiệp làm pháp chế? Không, họ là những luật sư hàng đầu nhưng bạn không nên tự động nghĩ rằng chuyên môn của họ tốt hơn tất cả những luật sư pháp chế nội bộ khác. Nếu họ nhận vị trí của một TBPC, họ sẽ vấn gặp rất nhiều khó khăn như họ chưa từng gặp. 

    Một điều đương nhiên, một hãng luật, văn phòng luật vẫn là một công ty, một thực thể kinh doanh. Nó cũng cần phải marketing, quảng cáo như tất cả các loại công ty khác. Chắc bạn hiểu tầm quan trọng của marketing trong thời đại này rồi. Như một điều tất yếu, khi một hãng luật xây dựng danh tiếng, các luật sư của họ sẽ có nhiều cơ hội hơn để xuất hiện trên tạp chí, truyền thông và danh sách bảng xếp hạng luật sư. 

    Trong khi đó, các công ty mong muốn luật sư nội bộ chỉ làm việc cho riêng mình. Hãy tưởng tượng bạn sở hữu một công ty và có luật sư riêng, bạn sẽ mong muốn luật sư đó dành toàn bộ thời gian và nỗ lực để phục vụ công ty của bạn hay luật sư đó vẫn cung cấp dịch vụ cho những người khác, đó là còn chưa tính đến tư vấn cho các đối thủ kinh doanh của bạn? Rất nhiều công việc TBPC sẽ gắn với một hạn chế công việc kinh doanh riêng. Đúng vậy, đối với TBPC (mức độ cao nhất của luật sư nội bộ), họ ít khi xuất hiện trên tạp chí hay bảng xếp hạng các luật sư. 

    Vì vậy, nếu bạn muốn trở thành luật sư “có tiếng”, làm việc trong hãng luật sẽ tốt hơn cho bạn. Nếu bạn làm việc trong phòng pháp chế, đừng ngây ngô nghĩ rằng nếu bạn sở hữu vốn kiến thức uyên bác và kỹ năng xuất sắc thì cộng đồng sẽ tự động biết đến bạn. Bạn phải bước ra sân khấu và thể hiện cho mọi người xung quang bạn khá như thế nào. Khi bạn làm cho một hãng luật, khách hàng và các hãng luật khác sẽ là khán giả cho sân khấu đó, và nếu bạn làm tốt, sẽ có nhiều người biết đến bạn hơn.

    9. PARTNER so với TBPC

    Tôi không biết nên dùng từ gì gọn gàng trong tiếng Việt để chỉ “Partner” (có thể dịch là “luật sư thành viên”), vì vậy nên xin giữ nguyên từ này cho nó gọn. Một partner tức là một luật sư có vốn sở hữu trong hãng luật. Thường thường thì một hãng luật sẽ có nhiều partner. 

    Nếu bạn vẫn đọc phần này thì xin cảm ơn sự kiên nhẫn của bạn! Và tôi đoán rằng bạn có thể là một người tham vọng hoặc khá tò mò…Thành thật mà nói, tôi chưa bao giờ trải qua hai vị trí cao nhất này và nó là xa vời. Nhưng tôi đã làm việc rất gần với những người nắm giữ vị trí này nên tôi có thể tiết lộ một số điều mà tôi biết. 

    Cả hai đều là những vị trí rất thử thách! Là TBPC có nghĩa là bạn chịu trách nhiệm toàn bộ cho hoạt động của phòng pháp chế và các vấn đề pháp lý. Bạn sẽ phải làm việc rất gần với các lãnh đạo công ty và chịu sự ảnh hưởng bởi phong cách của họ. Nếu sếp của bạn làm việc ngày đêm thì bạn cũng phải sẵn sàng ngày đêm. Cho dù bạn có là một luật sư xuất sắc thì một điều kiện tiên quyết để bạn có thể gắn bó và trụ được lâu dài như một TBPC đó là bạn phải rất “hợp” với phong cách của lãnh đạo công ty. 

    Nói về việc làm partner. Ok, bạn bắt đầu là một trợ lý luật sư, bạn làm tốt và tiến bộ, bạn trở thành một luật sư cấp cao thành công và gắn bó lâu dài với hãng luật. Tiếp theo thế nào? Hãng luật sẽ đề xuất bạn trở thành partner để ghi nhận những cống hiến của bạn. Vâng, trở thành một partner, nhiều quyền lực hơn khiến cuộc sống trở nên dễ dàng… Đó là một phần thôi, thực tế khác như vậy. Đây là một điều đã từng làm tôi rất ngạc nhiên: tôi biết và đã nghe về một số tình huống mà các luật sư Việt Nam/hay cả luật sư nước ngoài của các công ty luật nước ngoài từ chối với đề nghị trở thành partner của hãng luật mà mình đang làm việc. Vâng, đó là sự thật. Tại sao? Đề nghị trở thành partner thường gắn với điều kiện về mua phần vốn kèm theo các cam kết hiệu quả khác, điều này dẫn đến sự sụt giảm về thu nhập trong giai đoạn đầu. Ngoài ra, trở thành partner, bạn không còn đơn thuần chỉ là một luật sư nữa, bạn là một doanh nhân điều hành dịch vụ pháp lý. Đó không chỉ đơn giản là một món quà mà còn là một thử thách. 

    Công việc thử thách gắn liền với phần thưởng xứng đáng. Một anh bạn luật sư của tôi từng tiết lộ anh nhận được đề nghị làm luật sư nội bộ với mức lương tháng 10K USD từ một tập đoàn trong nước! Một con số thật lớn, và đó là con số lớn nhất tôi được biết cho vị trí luật sư nội bộ. Con số trung bình thấp hơn nhiều, bạn có thể lên Vietnamwork để kiểm tra. Tôi không biết các partner thu nhập bao nhiêu nhưng tôi đoán rằng partner sẽ thu được nhiều hơn. Bạn có thể xem mục 2 - Lương để biết cách tìm hiểu so sánh lương. Ngoài khoản lương ra, partner sẽ có cổ tức/lợi nhuận từ hãng luật nhưng TBPC cũng có thể nhận thưởng và cổ phiếu thưởng từ công ty của họ, điều này làm khoảng cách nhỏ lại. 

    Hy vọng qua bài này bạn sẽ có được một cái nhìn nhất định về sự khác biệt giữa hai môi trường phổ biến của nghề luật sư hiện nay. Không có lựa chọn nào là hoàn hảo, tuy nhiên sẽ luôn có cái phù hợp hơn cho một mục tiêu nào đó của bạn.

    Chúc may mắn!

    (Dự thảo án lệ số 1) Quyết định GĐT số 01/2017/KDTM-GĐT ngày 1/3/2017 về công nhận hợp đồng thế chấp QSDĐ mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế chấp

    Án lệ số  /2017/AL về công nhận hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế chấp

    Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày…  tháng … năm 2017 và được công bố theo Quyết định số …/QĐ-CA ngày … tháng … năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

    Nguồn án lệ:

    Quyết định giám đốc thẩm số 01/2017/KDTM-GĐT ngày 01-3-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” tại thành phố Hà Nội giữa nguyên đơn là Ngân hàng A với bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn B; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 10 người.

    Vị trí nội dung án lệ:

    Đoạn 4 phần “Nhận định của Toà án”

    Khái quát nội dung của án lệ:

    - Tình huống án lệ 1:

    Một bên thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nhưng trên đất còn có tài sản thuộc sở hữu của người khác;hình thức và những nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật.

    - Giải pháp pháp lý 1:

    Trường hợp này, Tòa án phải xác định hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật.

    - Tình huống án lệ 2:

    Bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản gắn liền với đất không thuộc sở hữu của người sử dụng đất.

    - Giải pháp pháp lý 2:

    Trường hợp này, khi giải quyết Tòa án phải dành cho chủ sở hữu nhà trên đất được quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó nếu họ có nhu cầu.

    Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

    Điều 342 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương ứng với Điều 318 Bộ luật dân sự năm 2015); Điều 715, Điều 721Bộ luật Dân sự năm 2005; mục 4 khoản 19 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22-02-2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (pháp điển hóa tại khoản 2 Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2015).

    Từ khóa của án lệ:

    “Thế chấp quyền sử dụng đất”; “Trên đất có tài sản của người khác”; “Thỏa thuận xử lý tài sản thế chấp”; “Ưu tiên nhận chuyển nhượng”.

    NỘI DUNG VỤ ÁN:

    Tại đơn khởi kiện đề ngày 6/10/2011 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là Ngân hàng A trình bày:

    Ngày 16-6-2008, Ngân hàng A (sau đây viết tắt là Ngân hàng)và Công ty trách nhiệm hữu hạnB (sau đây viết tắt là Công ty B) ký Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142. Theo đó, Ngân hàng cho Công ty B vay 10.000.000.000 đồng và/hoặc bằng ngoại tệ tương đương. Mục đích cấp tín dụng để bổ sung vốn lưu động phục vụ kinh doanh theo nghề đăng ký của Công ty B.

    Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân tổng cộng 3.066.191.933 đồng cho Công ty Btheo các Hợp đồng tín dụng kiêm Khế ước nhận nợ. Tính đến ngày 05-10-2011, Công ty Bcòn nợ gốc và lãi của 03 Khế ước là 4.368.570.503 đồng (trong đó nợ gốc là 2.943.600.000 đồng, nợ lãi là 1.424.970.503 đồng).

    Tài sản bảo đảm cho khoản vay nêu trên là nhà, đất [thửa đất số 43, tờ bản đồ số 5I-I-33 (1996)] tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H và bà N (theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 10107490390 do Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 07-12-2000), do ông H, bà N thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Hợp đồng thế chấp này được Phòng công chứng số 6 thành phố Hà Nội công chứng ngày 11-6-2008 và Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm ngày 11-6-2008.

    Ngày 30-10-2009, Ngân hàng và Công ty Btiếp tục ký Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200900583. Theo đó, Ngân hàng cho Công ty B vay 180.000 USD. Mục đích vay để thanh toán tiền vận chuyển hàng hóa lô hàng xuất khẩu; thời hạn vay 09 tháng; lãi suất vay 5,1%/năm; lãi suất quá hạn bằng 150%.

    Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân đủ số tiền vay 180.000 USD cho Công ty B. Công ty B mới trả cho Ngân hàng số tiền nợ gốc là 100.750 USD và số nợ lãi là 1.334,50 USD. Tính đến ngày 05-10-2011, Công ty Bcòn nợ gốc là 79.205 USD và nợ lãi là 16.879,69 USD. Tổng cộng cả nợ gốc và lãi là 96.120,69 USD.

    Tài sản bảo đảm cho khoản vay của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-2009058 gồm:

    - Lô hàng 19 xe ô tô tải thành phẩm trọng tải 1,75 tấn hiệu JMP mới 100% trị giá 2.778.750.000 đồng (do Công ty B lắp ráp theo phương thức hàng để kho đơn vị, Ngân hàng giữ Giấy chứng nhân đăng kiểm chất lượng xe xuất xưởng) do Công ty Bthế chấp theo Hợp đồng thế chấpsố 219/2009/EIBHBT-CC ngày 29-10-2009. Hợp đồng thế chấp này được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Cục đăng ký giao dịch bảo đảm thành phố Hà Nội ngày 02-11-2009;

    - Số dư tài khoản tiền gửi kỳ hạn 03 tháng trị giá 1.620.000.000 đồng do Ngân hàng phát hành. Do Công ty Bđã thực hiện được một phần nợ vay nên Ngân hàng đã giải chấp số tiền 1.620.000.000 đồng tiền gửi trong tài khoản tiết kiệm của Công ty B, tương ứng với số nợ đã thanh toán.

    Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Ngân hàng xác nhận: đối với khoản vay 180.000 USD, Công ty B đã trả xong nợ gốc; chỉ còn lại nợ lãi là 5.392,81 USD; tài sản bảo đảm là 19 xe ô tô, hiện đã bán 18 chiếc, còn lại 01 chiếc; đề nghị Tòa án cho xử lý nốt chiếc xe còn lại để thu hồi nợ vay còn thiếu.

    Ngân hàng yêu cầu Tòa án buộc:

    - Công ty Bthanh toán số nợ gốc và lãi bằng VNĐ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 là 4.368.570.503 đồng;

    - Công ty Bthanh toán 5.392,81 USD nợ lãi bằng USD của Hợp đồng tín dụng số 1702-LVA-200900583.

    Trong trường hợp, Công ty Bkhông thanh toán hoặc thanh toán không đủ đề nghị Tòa án phát mãi tài sản thế chấp là:

    - Quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H và bà N;

    - 01 xe ô tô tải thành phẩm, trọng tải 1,75 tấn, hiệu JMP mới 100% do Công ty Blắp ráp theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 219/2009/EIBHBT- CC ngày 29-10-2009.

    Đại diện bị đơn là anh T - Tổng Giám đốc Công ty B trình bày: Thừa nhận số tiền nợ gốc, lãi và tài sản thế chấp như Ngân hàng trình bày nhưng đề nghị Ngân hàng cho trả nợ dần.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông H và bà N trình bày: Ông bàthừa nhận ký hợp đồng thế chấp nhà, đất số 432 nêu trên để bảo đảm cho khoản vay tối đa là 3.000.000.000 đồng của Công ty B. Hợp đồng thế chấp được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm. Gia đình ông H và bà N cũng đã hỗ trợ Công ty trả được gần 600.000.000 đồng cho khoản vay có tài sản thế chấp là nhà và đất của ông bà. Ông, bà đề nghị Ngân hàng gia hạn khoản nợ của Công ty Bđể Công ty có thời gian phục hồi sản xuất, thu xếp trả nợ cho Ngân hàng; đề nghị Tòa án không triệu tập các con trai, con dâu, con gái và con rể của ông bà đến Tòa án làm việc.

    Anh P thay mặt cho những người con, cháu của ông H, bà N đang sống tại nhà, đất số 432 trình bày:

    Cuối năm 2010, anh mới biết bố mẹ anh thế chấp nhà đất của gia đình đang ở để bảo đảm cho khoản vay của Công ty B. Sau khi ông H, bà N được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000, anh Pvà anh Q đã bỏ tiền ra xây dựng thêm một ngôi nhà 3,5 tầng trên đất và 16 người trong gia đình hiện đang ở tại nhà, đất số 432 nêu trên. Khi ký hợp đồng thế chấp, Ngân hàng không hỏi ý kiến các anh và những người đang sinh sống tại nhà, đất này. Do đó, anh đề nghị Tòa án không công nhận hợp đồng thế chấp và xem xét số tiền 550.000.000 đồng mà anh em các anh đóng góp vào trả nợ cho Công ty B theo Hợp đồng tín dụng có tài sản bảo đảm là nhà, đất số 432 nêu trên nhưng Ngân hàng tự ý trừ vào khoản vay ngoại tệ có tài sản bảo đảm là 19 xe ô tô là không đúng.

    Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24/9/2013, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:

    - Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng A đối với Công ty TNHH B.

    - Buộc Công ty TNHH B phải thanh toán trả cho Ngân hàng A số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142, bao gồm:nợ gốc 2.813.600.000 đồng; nợ lãi trong hạn 2.080.977.381 đồng; nợ lãi quá hạntính đến ngày 23-9-2013 1.036.575.586đồng; tiền lãi phạt chậm trảtính đến ngày 23-9-2013123.254.156 đồng; Tổng cộng:  6.054.407.123 đồng.

    - Buộc Công ty TNHHBphải thanh toán trả cho Ngân hàng A số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800583, gồm số tiền nợ lãi quá hạn là 5.392,81 USD.

    Trong trường hợp Công ty TNHH Bkhông trả nợ hoặc trả không đủ số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142, thì Ngân hàng Acó quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật là quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại thửa số 43, tờ bản đồ số 5I-I-33 (1996) theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 10107490390 do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 07-12-2000 cho ông H và bà N tại địa chỉ số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội để thu hồi nợ…

    Trường hợp Công ty TNHH Bkhông trả nợ hoặc trả không đủ số tiền nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800583, thì Ngân hàng A có quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo đảm là 01 chiếc xe ô tô tải, trọng tải 1,75 tấn hiệu JMP do Công ty TNHH Blắp ráp theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 219/2009/EIBHBT-CC ngày 29-10-2009 để thu hồi nợ.

    Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

    Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.

    Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 07-7-2014, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định:

    Giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về Hợp đồng tín dụng, về các khoản tiền vay và tiền Công ty B phải trả Ngân hàng A;hủy phần quyết định của Bản án sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về  phần hợp đồng thế chấp, bảo đảm của người thứ 3, cụ thể:

    … Hủy phần quyết định về hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của người thứ 3 (nhà đất số 432, tổ 28 phường E, quận G, thành phố Hà Nội) ký ngày 11-6-2008 tại Phòng công chứng số 6 thành phố Hà Nội và đăng ký tài sản bảo đảm tại Sở tài nguyên và môi trường thành phố Hà Nội ngày 11-6-2008…

    Giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xác minh, thu thập chứng cứ và xét xử lại, xác định phần tài sản hợp pháp thuộc sở hữu của ông H, bà N làm tài sản thế chấp bảo đảm cho Công ty TNHH B đối với khoản tiền vay ở Ngân hàng A theo Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 ngày 16-6-2008.

    Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

    Sau khi xét xử phúc thẩm, Ngân hàng, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có văn bản đề nghị xem xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.

    Tại Kháng nghị giám đốc thẩm số 14/2016/KDTM-KN ngày 12-4-2016, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 7-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 7-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xử hủy bản án phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại.

    NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

    [1] Hồ sơ vụ án thể hiện, để đảm bảo cho khoản vay theo Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 ngày 16-6-2008 tại Ngân hàng của Công ty B do anh T là con trai ông H, bà N làm Giám đốc, thì ngày 11-6-2008, ông H và bà N đã thế chấp nhà, đất tại số 432,tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H, bà N theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Hợp đồng thế chấp này được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật.

    [2] Theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 07/12/2000, thì nhà, đất tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội (sau đây viết tắt là nhà, đất số 432), gồm: diện tích đất ở 147,7 m2, diện tích nhà ở 85 m2, kết cấu nhà: bê tông và xây gạch; số tầng: 02+01. Khi thẩm định tài sản thế chấp, Ngân hàng biết trên diện đất 147,7 m2 ngoài căn nhà 02 tầng đã được đăng ký sở hữu, còn có căn nhà 3,5 tầng chưa đăng ký sở hữu nhưng Ngân hàng chỉ định giá quyền sử dụng đất và căn nhà 02 tầng đã đăng ký sở hữu với tổng giá trị nhà, đất là 3.186.700.000 đồng, mà không thu thập thông tin, tài liệu để xem xét làm rõ nguồn gốc cũng như ai là chủ sở hữu căn nhà 3,5 tầng là thiếu sót, không đảm bảo quyền lợi của các đương sự.

    [3] Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 06-6-2012, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ, xác định: nhà, đất số 432 có 02 khối nhà (gồm: khối nhà thứ nhất: diện tích chiếm đất là 37,5 m2, chiều dài 5,9 m, chiều rộng 6,35 m; khối nhà thứ hai là nhà bê tông ba tầng có ban công, diện tích 61,3 m2) và hiện có 16 người thường trú, đăng ký dài hạn, thường xuyên sinh sống. Trước khi xét xử sơ thẩm, ngày 21-9-2013, anh P (con trai ông H, bà N) có Đơn kiến nghị gửi Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cho rằng sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000, do khó khăn về chỗ ở, năm 2002, gia đình ông H, bà N đã thống nhất để anh P và những người con của ông H, bà N bỏ tiền ra xây dựng thêm căn nhà 3,5 tầng bên cạnh căn nhà 02 tầng cũ trên thửa đất nói trên. Như vậy, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội biết trên thực tế hiện trạng thửa đất khi thế chấp đã có 02 căn nhà (căn nhà 02 tầng cũ và căn nhà 3,5 tầng) không đúng theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000 và Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Khi giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có xem xét yêu cầu của anh P và những người con ông H, bà N liên quan đến căn nhà 3,5 tầng nhưng Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội không quyết định rõ có xử lý phát mãi căn nhà 3,5 tầng hay không là không đúng, không đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự.

    [4] Theo quy định tại mục 4 khoản 19 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm: “Trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất không đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì khi xử lý quyền sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được tiếp tục sử dụng đất theo như thỏa thuận giữa người sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Quyền và nghĩa vụ giữa bên thế chấp và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được chuyển giao cho người mua, người nhận chính quyền sử dụng đất”. Trong vụ án này, khi ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, bên thế chấp (ông H, bà N) và bên nhận thế chấp (Ngân hàng) đều biết rõ trên thửa đất của ông H, bà N ngoài căn nhà 02 tầng đã được đăng ký quyền sở hữu thì trên đất còn có một căn nhà 3,5 tầng chưa được đăng ký quyền sở hữu nhưng các bên chỉ thỏa thuận thế chấp tài sản gồm quyền sử dụng đất và căn nhà 02 tầng gắn liền với đất. Trường hợp trên đất có nhiều tài sản gắn liền với đất mà có tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất, có tài sản thuộc sở hữu của người khác mà người sử dụng đất chỉ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình, hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật thì hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm xác định Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008 có một phần bị vô hiệu (phần có căn nhà 3,5 tầng); xử hủy phần quyết định của bản án sơ thẩm về phần hợp đồng thế chấp và giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xác minh, thu thập chứng cứ xác định phần tài sản hợp pháp thuộc sở hữu của ông H, bà N và xét xử lại là không đúng. Lẽ ra, với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm cần xem xét, quyết định về xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và căn nhà thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông H, bà N theo quy định của pháp luật. Khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm cần yêu cầu đương sự cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh nguồn gốc hình thành căn nhà 3,5 tầng nêu trên để giải quyết vụ án bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho những người đã bỏ tiền ra xây dựng nhà và đang sinh sống tại đó. Đồng thời, Tòa án cấp phúc thẩm cần hỏi ý kiến, động viên, khuyến khích các đương sự thỏa thuận xử lý tài sản thế chấp. Trường hợp bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng diện tích đất mà trên đất có nhà thuộc sở hữu của người khác không phải là người sử dụng đất thì cần dành cho chủ sở hữu nhà đó được quyền ưu tiên nếu họ có nhu cầu mua (nhận chuyển nhượng).

    [5] Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ theo thỏa thuận của các bên tại khoản 5.4 Điều 5 Hợp đồng tín dụng về lãi phạt chậm trả trên số lãi chưa thanh toán “lãi phạt chậm trả là quá 10 ngày kể từ ngày đáo hạn, mức lãi phạt là 2% trên số lãi chưa thanh toán; quá 30 ngày kể từ ngày đáo hạn, mức lãi phạt là 5% trên số lãi chưa thanh toán” để chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng buộc Công ty B phải trả số tiền lãi phạt chậm trả123.254.156 đồng là không đúng pháp luật, không được chấp nhận vì đây là lãi chồng lãi. Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện ra sai sót này, vẫn giữ nguyên quyết định này của bản án sơ thẩm cũng là không đúng.

    Vì các lẽ trên,

    QUYẾT ĐỊNH:

    Căn cứ vào khoản 2 Điều 337, khoản 3 Điều 343, Điều 345 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự;

    1. Chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm số 14/2016/KDTM-KN ngày 12-4-2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

    2.  Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 07-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội về vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng A, bị đơn là Công ty TNHH B và 10 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

    3. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm đúng quy định của pháp luật.

    NỘI DUNG ÁN LỆ

    “[4] Trường hợp trên đất có nhiều tài sản gắn liền với đất mà có tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất, có tài sản thuộc sở hữu của người khác mà người sử dụng đất chỉ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình, hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật thì hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật…

    …Trường hợp bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng diện tích đất mà trên đất có nhà thuộc sở hữu của người khác không phải là người sử dụng đất thì cần dành cho chủ sở hữu nhà đó được quyền ưu tiên nếu họ có nhu cầu mua (nhận chuyển nhượng).”

    (nguồn: anle.toaan.gov.vn)

    Cảnh cáo thư ký tòa “mua nhà cứu bị đơn”

    Xem thêm:
    ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
    Hội đồng Kỷ luật TAND TPHCM đã ra hình thức kỷ luật là cảnh cáo thư ký Nguyễn Đoàn Nam Hà. Hiện nay, Hà không được làm thư ký nghiệp vụ mà làm cán bộ tòa án. Hà bị cảnh cáo vì đã can thiệp vào một vụ án đòi tiền đặt cọc nhà
    Bà Nguyễn Thị Bích Thủy, Chánh án TAND quận Bình Thạnh, cho biết như trên và nói trước đó, lãnh đạo tòa Bình Thạnh đã báo cáo vụ tiêu cực của thư ký Hà với TAND TPHCM. Nội dung vụ việc như sau:
    Ông Trần Văn Hùng mua căn nhà số 82/150A Bùi Đình Túy của ông Nguyễn Tăng Phú Nhuận. Cả hai thống nhất giá bán căn nhà là 75 lượng vàng và ghi rõ: “Anh Nhuận chịu trách nhiệm lo đầy đủ giấy tờ ra tên anh Hùng đứng giấy chủ quyền nhà và sử dụng đất”.
    Sau khi nhận 70 lượng vàng đặt cọc, Nhuận luôn lẩn tránh, sau đó, giao giấy tờ photo biên lai cho ông Hùng và nói lên quận hối thúc giấy tờ. Lên Phòng Quản lý Đô thị quận Bình Thạnh, ông Hùng mới hay căn nhà này nằm trong khu giải tỏa. Ông Hùng đòi lại tiền đặt cọc nhưng Nhuận lánh mặt. Ngày 3-3-2003, ông Hùng kiện Nhuận ra TAND quận Bình Thạnh đòi 70 cây vàng đặt cọc.

    Bàn việc ở quán cà phê
    Để tránh việc tẩu tán tài sản, ông Hùng đã yêu cầu TAND quận Bình Thạnh kê biên nhà của Nhuận, đó là nhà số 140/80 Phan Văn Trị.
    Ông Hùng kể: “Ngày 26-3-2004, tôi đến phòng của thẩm phán Trần Văn Huệ để nhận quyết định kê biên căn nhà 140/80 Phan Văn Trị thì Hà có mặt ở đó và đi theo năn nỉ tôi cho gặp riêng. Tại quán cà phê ở quận 1, thư ký Hà tỏ ý muốn mua căn nhà mà Nhuận đã bán cho tôi với giá 80 cây vàng, sẽ đưa trước 160 triệu đồng và yêu cầu tôi giải tỏa kê biên căn nhà 140/80 Phan Văn Trị”.
    Ông Hùng nói đây là chiêu thức để Hà đưa ông vào tròng. Nếu ông bán căn nhà cho Hà và nhận 160 triệu đồng đặt cọc rồi giải tỏa kê biên căn nhà 140/80 cho Nhuận thì Nhuận sẽ bán căn nhà này, lúc đó ông Hùng không còn gì để bảo đảm có thể thu lại được số vàng đặt cọc, còn Hà sẽ không mua nhà của ông.

    Giấy triệu tập hay đương sự không đến?
    Theo ông Hùng, vì TAND quận Bình Thạnh cho rằng nhà này có yếu tố người nước ngoài (chủ cũ đi nước ngoài) cùng với việc Nhuận không đến tòa theo giấy triệu tập nên vụ án cho đến giờ vẫn chưa ngã ngũ.
    Bà Nguyễn Thị Bích Thủy, Chánh án TAND quận Bình Thạnh, nói ông Hùng cho rằng tòa cố tình kéo dài vụ án là không đúng, vì tòa có gửi giấy triệu tập nhiều lần nhưng ông Hùng không đến.
    Ông Hùng giải thích tòa Bình Thạnh triệu tập ông nhiều lần là từ khi thẩm phán Trần Văn Huệ thụ lý (trước đó do thẩm phán khác thụ lý). Tuy nhiên, lúc ấy ông đã bán nhà nên không nhận được thư triệu tập và ông có để lại số điện thoại nhưng tòa không liên lạc.
    Chánh án TAND TPHCM Bùi Hoàng Danh khẳng định đã chỉ đạo TAND quận Bình Thạnh kiểm tra chặt chẽ vụ án này để xét xử nghiêm minh.
    ------------------
    Thư ký tòa “ làm nhà đất” lâu rồi
    Thư ký Hà: Chỉ có bán căn nhà này, em với thằng Nhuận mới xoay nổi sự việc thôi...
    Ông Hùng: Em làm ăn với nó (Nhuận) mấy năm rồi?
    Hà: Dạ cũng lâu rồi, làm cũng được vài căn rồi... Giấy tờ em chuẩn bị sẵn đây, em viết liền cho anh...
    Ông Hùng: Một là cách này, hai là em về tòa với anh viết giấy em đồng ý chịu trách nhiệm đứng ra giải quyết thay thế Nguyễn Tăng Phú Nhuận.
    Hà: Không,... vì em viết giấy ra tòa cũng đâu chấp nhận, về pháp lý em là người không liên quan đến vụ án, em đâu có thể nhận trách nhiệm, nếu làm được em đã làm rồi.
    Ông Hùng: Tại vì cái nhà kia nó không cần bán, cứ để hoài nên anh phải chuyển qua kê biên căn nhà này...
    Hà: Anh khỏi cần kê biên căn nhà nào hết..., em bán cực nhanh rồi giao hết tiền cho anh. Em hứa với anh trong vòng 7 ngày mà không đưa hết tiền cho anh, em là con chó...
    (Trích băng ghi âm cuộc trao đổi giữa ông Hùng và thư ký Hà ngày 26-3-2004)
    (Theo Bích Phượng, www.nld.com.vn, 28/09/2004 05:23)