Dự thảo án lệ số 17/2024 Về xác định tài sản chung của vợ chồng
DỰ THẢO ÁN LỆ SỐ 17/2024[I]
ÁN LỆ SỐ .../2024/AL
Về xác định tài sản chung của vợ chồng
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua vào ngày ... tháng ... năm 2024 và được công bố theo Quyết định số .../QĐ-CA ngày ... tháng ... năm 2024 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số 02/2022/HNGĐ-GĐT ngày 13/01/2022 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp tranh chấp ly hôn và chia tài sản khi ly hôn” giữa nguyên đơn là ông E với bị đơn là bà Nguyễn Thị Ngọc C; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Ngọc B và ông Nguyễn Kim D.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 8, 9, 10 và 11 phần “Nhận định của Tòa án”.
Khái quát nội dung của án lệ:
- Tình huống án lệ:
Một bên vợ hoặc chồng giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trước khi vợ chồng đăng ký kết hôn, nhưng trước đó hai bên đã có tờ khai đăng ký kết hôn và đã tổ chức lễ cưới. Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác nhận chuyển nhượng cho vợ, chồng.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, Tòa án phải xác định quyền sử dụng đất do một bên nhận chuyển nhượng là tài sản chung của vợ chồng.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
Khoản 13 Điều 3; Điều 33; Điều 43; Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Từ khoá của án lệ:
“Tài sản chung”; “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”; “Tờ khai đăng ký kết hôn”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn là ông E và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là bà Lê Nguyễn Vi V trình bày: Ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C kết hôn ngày 06/8/2013 tại Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định. Ngày 02/11/2016, ông E xin ly hôn bà C; về con chung và nợ chung: không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết; về tài sản chung gồm có:
- Các thiết bị máy móc, vật dụng điện tử ông đã mua trước và trong thời kỳ hôn nhân gồm: tủ lạnh, tivi, máy giặt, lò vi sóng, máy nén khí có tổng trị giá gần 50.000.000 đồng. Ông yêu cầu chia các tài sản trên nhưng sau đó ông tự nguyện rút yêu cầu này.
- Diện tích 1.288m2 tại Thôn H, xã T, huyện B, tỉnh Bình Thuận: diện tích đất nêu trên có nguồn gốc của vợ chồng ông nhận chuyển nhượng của ông Trần Minh P, bà Nguyễn Thị P1 với giá 600.000.000 đồng. Vợ chồng ông ký hợp đồng mua bán với ông P, bà P1 bằng giấy viết tay ngày 05/10/2013 với tổng diện tích 1.288m2 đất, nhưng chỉ có 589,8m2 đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ngày 08/10/2013, vợ chồng ông và vợ chồng ông P, bà P1 đến Văn phòng công chứng làm thủ tục chuyển nhượng 589,8m2 và trả trước số tiền 322.000.000 đồng, diện tích đất còn lại chờ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì sẽ làm thủ tục chuyển nhượng sau. Đến ngày 08/4/2014, vợ chồng ông P, bà P1 và vợ chồng ông đến Văn phòng công chứng Lương P để làm hợp đồng chuyển nhượng diện tích 590,7m2 đất mà ông P, bà P1 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vợ chồng ông đã giao đủ tiền chuyển nhượng. Tuy nhiên, bà C đã hai lần lừa dối ông với lý do ông là người nước ngoài, không thể đứng tên trong hợp đồng nên để bà C đứng tên, nhưng bà C lại để cho ông Nguyễn Kim D, bà Nguyễn Thị Ngọc B (là anh, chị của bà C) đứng tên trong hợp đồng với tư cách là người mua đất, cụ thể như sau:
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 08/10/2013, ông Trần Minh P, bà Nguyễn Thị P1 và chị Trần Thị Minh P2 (con của ông P, bà P1) chuyển nhượng cho bà C, bà B diện tích 589,8m2 đất, thửa số 57, tờ bản đồ số 03, với giá 249.900.000 đồng, hợp đồng được công chứng tại Văn phòng Công chứng S.
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 08/4/2014, ông Trần Minh P, bà Nguyễn Thị P1 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Kim D diện tích 590,7m2 đất, thửa số 57, tờ bản đồ 335 với giá 100.000.000 đồng, hợp đồng được công chứng tại Văn phòng Công chứng S.
Đến tháng 6/2014, ông và bà C xin được giấy phép xây dựng và đã xây căn nhà cấp 3B diện tích 173,85m2 với giá khoảng 700.000.000 đồng.
- Diện tích 600m2 đất tại Thôn H, xã T, huyện B, tỉnh Bình Thuận: diện tích đất nêu trên có nguồn gốc của vợ chồng ông nhận chuyển nhượng của bà Trần Thị N với giá 280.000.000 đồng theo Giấy thỏa thuận mua bán đất ngày 09/7/2013. Các bên đã lập thành 02 hợp đồng chuyển nhượng như sau:
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 09/7/2013, bà Trần Thị N và chị Trần Thị Huyền M (con của bà N) chuyển nhượng cho bà C diện tích 291,3m2, thửa số 56, tờ bản đồ số 3 (sau này được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thửa số 58, tờ bản đồ số 335) tại Thôn H, xã T, huyện B với giá 100.000.000 đồng, hợp đồng được công chứng tại Văn phòng Công chứng S.
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 26/9/2014, bà Trần Thị N và chị Trần Thị Huyền M (con của bà N) chuyển nhượng cho bà C diện tích 261,4m2 đất, thửa số 67, tờ bản đồ số 335 tại Thôn H, xã T, huyện B với giá 130.000.000 đồng, hợp đồng được công chứng tại Văn phòng Công chứng S.
Nguồn tiền mua các thửa đất nêu trên là của ông đưa cho bà C. Nhưng vì hạn chế ngôn ngữ, tin tưởng bà C và ông là người nước ngoài, không được đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ông đã để cho bà C đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nay ông đề nghị Tòa án chia đôi tài sản chung của ông và bà C là căn nhà cấp 3B và diện tích 1.888m2 đất nêu trên, với tổng số tiền là 1.630.000.000 đồng.
Bị đơn là bà Nguyễn Thị Ngọc C trình bày: Bà thống nhất với lời khai của ông E về việc kết hôn và con chung. Nay ông E xin ly hôn, bà đồng ý. Về nợ chung: Bà và ông E có nợ của bà Trần Thị Tố U số tiền 300.000.000 đồng, giấy nợ hiện ông E đang giữ nên bà không có yêu cầu Tòa án giải quyết số tiền này. Về tài sản chung: vợ chồng bà không có tài sản chung. Các tài sản mà ông E trình bày như trên là tài sản riêng của bà và các anh, chị của bà, cụ thể như sau:
- Diện tích 552,7m2 đất bà mua của bà Trần Thị N bằng tiền tích lũy riêng của bà trước khi biết ông E, thể hiện tại giấy viết tay thỏa thuận mua bán nhà đất ngày 09/7/2013.
- Diện tích 589,8m2 đất (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Bình Thuận cấp ngày 15/11/2013 đứng tên bà Nguyễn Thị Ngọc C và bà Nguyễn Thị Ngọc B) có nguồn gốc ông Trần Minh P, bà Nguyễn Thị P1 chuyển nhượng cho bà B và bà nhưng bà B có 85% trên tổng giá trị, bà chỉ có 15% bằng nguồn tiền riêng mà bà có trước hôn nhân.
- Diện tích 590,7m2 đất (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Bình Thuận cấp ngày 08/5/2014 đứng tên ông Nguyễn Kim D) là của ông D nhận chuyển nhượng của ông Trần Minh P, bà Nguyễn Thị P1, không liên quan đến bà nhưng ông D đồng ý cho bà quản lý và sử dụng.
- Về căn nhà: là tiền của ông D, bà B và bà góp lại để xây dựng, bà chỉ có một phần nhỏ và là người đại diện đứng ra quản lý.
Bà không nhận tiền của ông E để mua các thửa đất nêu trên và xây dựng nhà như ông E trình bày .
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Ngọc B trình bày: Tháng 11/2013, bà có mua một lô đất của ông Trần Minh P, bà Nguyễn Thị P1 thông qua bà C. Vì bà C đã ký hợp đồng mua đất với ông P và đặt cọc 50.000.000 đồng nhưng sau đó vợ chồng bà C lục đục, không có đủ tiền mua đất nên bà đã mua lại diện tích đất này với giá 500.000 đồng/m2 theo diện tích đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với tổng số tiền là 322.000.000 đồng, nhưng do phát sinh 108m2 đất không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nằm trong lô đất bà mua nên hai bên thương lượng mỗi bên chịu thiệt 50%, bà không nhớ chính xác là bao nhiêu. Bà là người thương lượng, trao đổi với anh Trần Minh Q (con trai ông P) và giao tiền cho gia đình ông P. Tiền mua đất là của gia đình bà tích góp, bà C chỉ có 50.000.000 đồng tiền đặt cọc ban đầu. Nay ông E yêu cầu chia quyền sử dụng đất bà không đồng ý vì đây là đất của bà, bà chỉ nhờ bà C đứng tên hộ để thuận tiện mua bán giao dịch.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyên Kim D trình bày: đầu năm 2013, sau khi kết hôn, vợ chồng em gái của ông là bà C có dự định mua đất tại xóm D để xây nhà kinh doanh nhưng không đủ năng lực tài chính nên có đề nghị anh, chị trong gia đình cho mượn. Tuy nhiên, sau đó vợ chồng bà C hay xích mích, bất hòa nên lại thôi. Vì thế bà B đã giúp bà C mua 589,8m2 đất của ông P đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, còn diện tích 590,7m2 đất chưa làm xong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì chờ làm xong mới tính tiếp. Sau đó, ông giúp việc xây dựng nhà trong thời gian 02 năm. Đến tháng 4/2014, diện tích đất còn lại đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ông mua của ông P, bà P1 với giá 250.000.000 đồng. Ông là người giao tiền cho ông P, bà P1 tại Văn phòng Công chứng S. Đây là tài sản của riêng ông nên ông không đồng ý chia theo yêu cầu của ông E.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị N trình bày: ngày 09/7/2013, bà và các thành viên trong gia đình cùng thống nhất chuyển nhượng cho vợ chồng ông E và bà C diện tích 600m2 đất tại thôn H, xã T với giá 280.000.000 đồng, thanh toán tiền bằng nhiều đợt. Đến ngày 26/9/2014, hai bên mới ra phòng công chứng ký hợp đồng để làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà nhận tiền chuyển nhượng đất cho bà C và ông E giao tại phòng công chứng. Bà C nói ông E là người nước ngoài, không biết tiếng việt và không được phép nhận chuyển nhượng đất tại Việt Nam nên bà C đại diện đứng tên tham gia ký kết hợp đồng chuyển nhượng đất với bà. Bà xác nhận chuyển nhượng đất cho vợ chồng ông E và bà C, ông E ký hợp đồng chuyển nhượng với tư cách là chồng của bà C, không chuyển nhượng cho cá nhân bà C.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Trần Minh P, bà Nguyên Thị P1 trình bày: ngày 05/10/2013, vợ chồng ông bà chuyển nhượng cho ông E và bà C diện tích 1.288m2 (trong đó 589,8m2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử đụng đất, diện tích còn lại đang chờ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) tại thôn H, xã T với giá 600.000.000 đồng. Hai bên chỉ làm giấy viết tay, có chữ ký của ông E, nhưng sau này làm hợp đồng chính thức thì không ghi tên ông E, do bà C giải thích là ông E là người nước ngoài không biết tiếng Việt và cũng không được phép nhận chuyển nhượng đất tại Việt Nam nên không được đứng tên tại hợp đồng. Vợ chồng ông, bà đã nhận đủ tiền chuyển nhượng do bà C giao, ông E không tham gia giao nhận tiền mua bán đất. Vợ chồng bà chuyển nhượng cho vợ chồng bà C và ông E diện tích 1.288m2 đất nhưng được ký kết thành 2 lần. Lần 1 là đối với diện tích đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, công chứng viên đến nhà ông bà để vợ chồng ông bà và con là chị Trần Thị Minh P2 ký vào hợp đồng; lần 2 là đối với diện tích đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông, bà đi cùng bà C và ông D tới phòng công chứng để ký hợp đồng. Khi đó ông, bà không để ý ai ký vào hợp đồng do ông mắt kém, còn bà thì không biết chữ nên chỉ ký tên và điểm chỉ theo hướng dẫn của công chứng viên. Vợ chồng ông bà xác định chỉ chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà C và ông E.
Tại Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 34/2017/HNGĐ-ST ngày 30/11/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận quyết định:
- Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa ông E với bà Nguyễn Thị Ngọc C. Ông E được ly hôn với bà Nguyễn Thị Ngọc C.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông E về việc rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với các tài sản như máy nén khí, tủ lạnh... có giá trị 50.000.000 đồng. Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu khởi nguyên đơn đã rút.
Chấp nhận yêu cầu chia tài sản của nguyên đơn E về việc chia tài sản khi ly hôn với bà Nguyễn Thị Ngọc C.
Xác định tài sản chung của vợ chồng ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân là diện tích 1.888m2 đất thuộc các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ 214308 ngày 15/11/2013; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BS 735727 ngày 22/10/2014; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP 237780 ngày 22/7/2013; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ 214310 ngày 15/11/2013; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BS 681961 ngày 08/5/2014 đều được UBND huyện B cấp. 01 (một) căn nhà cấp 3B diện tích xây dựng 173,85m2, diện tích sàn 173,85m2 chiều cao công trình 7,091m, kết cấu xây dựng nhà: tường gạch, trụ cột gô; trụ cột hành lang bê tông cốt thép, lan can rộng 20cm ốp gạch ceramic khung hoa, trụ lục bình, cửa Pano gô, tay cầm cầu thang bằng gô, sàn gô. Nhà và đất tọa lạc tại thôn H, xã T, huyện B, tỉnh Bình Thuận. Tống giá trị tài sản là 3.104.426.000 đồng.
Xác định công sức đóng góp của vợ chồng là ngang nhau. Chia phần mỗi người được nhận giá trị tài sản là 1.552.213.000 đồng. Giao bà Nguyễn Thị Ngọc C được quyền sở hữu, quản lý và sử dụng diện tích 1.888m2 đất và 01 căn nhà cấp 3B diện tích xây dựng 173,85m2, diện tích sàn 173,85m2 chiều cao công trình 7,091m, kết cấu xây dựng nhà: tường gạch, trụ cột gô, trụ cột hành lang bê tông cốt thép, lan can rộng 20cm ốp gạch ceramic khung hoa, trụ lục bình, cửa Pano gô, tay cầm cầu thang bằng gô, sàn gô. Nhà và đất đều tọa lạc tại thôn H, xã T, huyện B, tỉnh Bình Thuận, đất đã được UBND huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cụ thể: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ 214308 ngày 15/11/2013; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BS 735727 ngày 22/10/2014; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP 237780 ngày 22/7/2013; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ 214310 ngày 15/11/2013; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BS 681961 ngày 08/5/2014.
Bà Nguyễn Thị Ngọc C có nghĩa vụ hoàn lại cho ông E số tiền 1.552.213.000 đồng.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, lãi suất chậm thi hành án, chi phí thẩm định tại chỗ và quyền kháng cáo của đương sự.
Ngày 07/12/2017, bà C, ông D, bà B kháng cáo bản án sơ thẩm về phần chia tài sản chung.
Ngày 13/12/2017, ông E kháng cáo yêu cầu định giá lại căn nhà có diện tích xây dựng là 173,85m2 và diện tích 1.888m2 đất tại thôn H, xã T và đề nghị miễn tiền án phí cho ông.
Tại Bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 04/2019/HNGĐ-PT ngày 05/3/2019, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Chấp nhận kháng cáo của ông E, bà Nguyễn Thị Ngọc C, bà Nguyễn Thị Ngọc B và ông Nguyễn Kim D. Sửa bản án sơ thẩm:
a/ Xác định tài sản chung vợ chồng ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C có trong thời kỳ hôn nhân là:
+ Thửa đất số 67, tờ bản đồ số 355, tọa lạc tại thôn H, xã T, huyện B, tỉnh Bình Thuận; đã được UBND huyện B cấp GCNQSDĐ số B S 735727 ngày 22/10/2014 đứng tên bà Nguyễn Thị Ngọc C. Giá trị QSDĐ tạm tính theo Chứng thư thẩm định giá của Công ty cổ phần thông tin và thẩm định giá M ngày 07/6/2017 là 282.312.000 đồng.
+ E diện tích đất tại thửa số 57, tờ bản đồ số 03, tọa lạc tại Xóm C, thôn H, xã T, huyện B, tỉnh Bình Thuận; đã được UBND huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ 214308 ngày 15/11/2013 đứng tên bà Nguyễn Thị Ngọc C và số BQ 214310 ngày 15/11/2013 đứng tên bà Nguyễn Thị Ngọc B. Giá trị quyền sử dụng đất tạm tính theo Chứng thư thẩm định giá của Công ty cổ phần thông tin và thẩm định giá M ngày 07/6/2017 là 318.492.000 đồng.
+ 01 Căn nhà cấp 3B xây dựng trên thửa đất số 57, tờ bản đồ số 3, tọa lạc tại thôn H, xã T, huyện B, tỉnh Bình Thuận; diện tích xây dựng 173,85m2, diện tích sàn 173,85m2, chiều cao công trình 7,091m; kết cấu nhà tường gạch, trụ cột gô, trụ cột hành lang bê tông cốt thép, lan can rộng 20cm ốp gạch ceramic khung hoa, trụ lục bình, cửa pano gô, tây cầm cầu thang bằng gô, sàn gô. Giá trị nhà tạm tính theo Chứng thư thẩm định giá của Công ty cổ phần thông tin và thẩm định giá M ngày 07/6/2017 là 1.232.569.663 đồng.
b/ Giao cho bà C được sử dụng toàn bộ diện tích đất và sở hữu căn nhà nêu trên.
c/ Buộc bà C thối trả cho ông E 30% giá trị quyền sử dụng đất, tạm tính là 180.241.200 đồng và 20% giá trị nhà tạm tính là 246.514.000 đồng trong trường hợp nhà đất lên hay xuống thì bà C vẫn phải thối trả cho ông E 30% giá trị đất và 20% giá trị nhà tại thời điểm thi hành án.
Tổng giá trị tài sản (tạm tính) ông E được nhận là 426.755.000 đồng.
Tổng giá trị tài sản (tạm tính) bà Nguyễn Thị Ngọc C được nhận là 1.406.618.436 đồng.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về lãi suất chậm thi hành án, chi phí thẩm định tại chỗ và án phí.
Ngày 22/5/2019, ông E có đơn đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm nêu trên.
Ngày 23/11/2021, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 10/2021/KN-HNGĐ đối với Bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 04/2019/HNGĐ-PT ngày 05/3/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp ly hôn và chia tài sản khi ly hôn” nguyên đơn là ông E với bị đơn là bà Nguyễn Thị Ngọc C; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 04/2019/HNGĐ-PT ngày 05/3/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 34/2017/HNGĐ-ST ngày 30/11/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận về phần chia tài sản chung; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật; Tạm đình chỉ thi hành Bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 04/2019/HNGĐ-PT ngày 05/3/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về phần tài sản chung cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm.
Tại phiên họp giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 10/2021/KN-HNGĐ ngày 23/11/2021 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về quan hệ hôn nhân: Ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C kết hôn ngày ngày 06/8/2013 tại Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định. Sau một thời gian chung sống, do tình cảm không còn nên ông, bà đều thuận tình ly hôn. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm công nhận ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C thuận tình ly hôn là có căn cứ.
[2] Về việc xác định tài sản chung của vợ chồng:
[3] Đối với thửa đất số 67, tờ bản đồ số 335 diện tích 261,4 m2, tại thôn H, xã T, huyện B, tỉnh Bình Thuận:
[4] Ngày 26/9/2014, bà Trần Thị N và chị Trần Thị Huyền M (con của bà N) chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Ngọc C thửa đất số 67, tờ bản đồ số 335 diện tích 261,4 m2 đất tại thôn H, xã T, huyện B với giá 130.000.000 đồng, hợp đồng được công chứng tại Văn phòng Công chứng S. Tại Giấy nhận tiền ngày 26/9/2014, thể hiện bên giao tiền mua đất là ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C. Bà Trần Thị N xác định bà chuyển nhượng thửa đất nêu trên cho vợ chồng ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C.
[5] Mặc dù Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà Nguyễn Thị Ngọc C nhưng thửa đất nêu trên được hình thành trong thời kỳ hôn nhân và bà Nguyễn Thị Ngọc C không có tài liệu chứng minh đó là tài sản riêng nên Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định thửa đất này là tài sản chung của ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C là có căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và mục b Điều 3 Nghị quyết số 02/2000/NQ- HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
[6] Đối với thửa đất số 58, tờ bản đồ số 335 diện tích 291,3m2 đất tại Thôn H, xã T, huyện B, tỉnh Bình Thuận:
[7] Ngày 09/7/2013, bà Trần Thị N và chị Trần Thị Huyền M (con của bà N) chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Ngọc C thửa đất số 56, tờ bản đồ số 3 (nay là thửa đất 58, tờ bản đồ số 335) diện tích 291,3m2 đất tại Thôn H, xã T, huyện B với giá 100.000.000 đồng, hợp đồng được công chứng tại Văn phòng Công chứng S. Ngày 22/7/2013, bà Nguyễn Thị Ngọc C được Ủy ban nhân dân huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
[8] Ông E cho rằng 291,3m2 đất nêu trên là tài sản chung của vợ chồng nên yêu cầu được chia 1/2 thửa đất. Bà Nguyễn Thị Ngọc C cho rằng diện tích đất trên là tài sản riêng của bà mua từ trước khi kết hôn với ông E, nguồn tiền là của cá nhân bà.
[9] Tuy nhiên, theo xác nhận của bà Trần Thị N thì bà chuyển nhượng thửa đất nêu trên cho vợ chồng ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C. Bà Trần Thị N còn cho rằng do bà Nguyễn Thị Ngọc C nói ông E là người nước ngoài nên không được đứng tên trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và cũng không được mua đất tại Việt Nam. Theo quy định tại Điều 9 Luật Đất đai năm 2003 thì người nước ngoài không được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Việt Nam. Do đó, chỉ có mình bà Nguyễn Thị Ngọc C đứng tên (là bên nhận chuyển nhượng) tại hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên và ngày 22/7/2013, Ủy ban nhân dân huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà Nguyễn Thị Ngọc C là phù hợp với lời khai của ông E và bà Trần Thị N.
[10] Mặc dù Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 09/7/2013 được ký trước khi ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C đăng ký kết hôn (ngày 06/8/2013) nhưng ngày 16/4/2013, ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C đã có tờ khai đăng ký kết hôn và đã tổ chức lễ cưới vào tháng 7/2013.
[11] Do đó, có cơ sở xác định thửa đất số 58, tờ bản đồ số 335 diện tích 219,3 m2 đất là tài sản chung của ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C. Tòa án cấp sơ thẩm xác định là tài sản chung của ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C là có căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm xác định là tài sản riêng của bà Nguyễn Thị Ngọc C là không đúng.
[12] Đối với thửa đất số 57, tờ bản đồ số 3 diện tích 589,8m2 và thửa đất số 57, tờ bản đồ số 335 diện tích 590,7m2 đất tại thôn H, xã T, huyện Bình:
[13] Ngày 05/10/2013, ông Trần Minh P, bà Nguyễn Thị P1 cùng 08 người con chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Ngọc C diện tích 1.288m2 đất, tờ bản đồ số 335 với giá 500.000đ/m2 (trong đó diện tích 589,8m2 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), hợp đồng được viết bằng tay, không được công chứng, chứng thực nhưng có chữ ký của bà Nguyễn Thị Ngọc C và ông E. Khi lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được công chứng ngày 08/10/2013 và ngày 08/4/2014 thì phần đất nêu trên được tách làm 2, theo đó bà Nguyễn Thị Ngọc C, bà Nguyễn Thị Ngọc B đứng tên nhận chuyển nhượng diện tích 589,8 m2 đất; ông Nguyễn Kim D đứng tên nhận chuyển nhượng diện tích 590,7m2 đất (bà Nguyễn Thị Ngọc B, ông Nguyễn Kim D là anh, chị của bà Nguyễn Thị Ngọc C).
[14] Trên cơ sở các hợp đồng nêu trên, ngày 15/11/2013, bà Nguyễn Thị Ngọc C, bà Nguyễn Thị Ngọc B mỗi người được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất riêng nhưng đều cùng 01 thửa số 57, tờ bản đồ số 3, diện tích 589,8m2 đất và ông Nguyễn Kim D cũng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 08/5/2014 đối với thửa đất số 57, tờ bản đồ số 335, diện tích 590,7m2 đất.
[15] Ông E cho rằng các thửa đất trên là tài sản chung của vợ chồng nên đề nghị được chia 1/2 nhưng bà Nguyễn Thị Ngọc C, bà Nguyễn Thị Ngọc B và ông Nguyễn Kim D không đồng ý vì cho rằng đây là tài sản riêng của bà Nguyễn Thị Ngọc C, bà Nguyễn Thị Ngọc B và ông Nguyễn Kim D.
[16] Tuy nhiên, ông Trần Minh P và bà Nguyễn Thị P1 (người chuyển nhượng quyền sử dụng đất) xác định chỉ chuyển nhượng đất cho ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C, không chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Ngọc B và ông Nguyễn Kim D. Ông Trần Minh P và bà Nguyễn Thị P1 trình bày bà Nguyễn Thị Ngọc C nói ông E là người nước ngoài nên không được mua đất tại Việt Nam. Tại thời điểm này, Luật Đất đai năm 2003 cũng không cho phép người nước ngoài được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Việt Nam. Như vậy, lời khai của ông Trần Minh P, bà Nguyễn Thị P1 và ông E là có cơ sở.
[17] Trên thực tế, bà Nguyễn Thị Ngọc B và ông Nguyễn Kim D cũng không quản lý, sử dụng các thửa đất nêu trên mà do ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C quản lý, sử dụng và xây dựng căn nhà trên thửa đất số 57, tờ bản đồ số 3. Khi xây dựng nhà, ông Phan Hồng K (người thi công xây dựng nhà) xác nhận ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C là người trả tiền xây dựng nhà.
[18] Như vậy, có cơ sở xác định nhà và đất tại thửa đất số 57, tờ bản đồ số 3, diện tích 589,8 m2 và thửa đất số 57, tờ bản đồ số 335, diện tích 590,7 m2 đất là tài sản chung của ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C, không phải là tài sản của bà Nguyễn Thị Ngọc B và ông Nguyễn Kim D.
[19] Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng chỉ có 1/2 thửa đất số 57, tờ bản đồ số 3, (diện tích 589,8 m2 đất/2) là tài sản chung của ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C, còn 1/2 thửa đất số 57, tờ bản đồ số 3 (diện tích 589,8 m2 đất/2) là tài sản của bà Nguyễn Thị Ngọc B và thửa số 57, tờ bản đồ số 335, diện tích 590,7 m2 đất là tài sản của ông Nguyễn Kim D là không có căn cứ.
[20] Tòa án cấp sơ thẩm xác định các thửa đất nêu trên là tài sản chung của ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C là đúng. Tuy nhiên, tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 15/11/2013 thì thửa số 57, tờ bản đồ số 3, diện tích 589,8 m2 đứng tên bà Nguyễn Thị Ngọc B và thửa đất số 57, tờ bản đồ số 335 diện tích 590,7m2 đất đứng tên ông Nguyễn Kim D nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét tính hợp pháp của 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên là chưa giải quyết triệt để vụ án.
[21] Về việc phân chia tài sản chung: Tòa án cấp phúc thẩm chia công sức đóng góp của mỗi bên trong việc tạo dựng tài sản là các thửa đất theo tỷ lệ bà Nguyễn Thị Ngọc C được hưởng 70%, ông E được hưởng 30% là chưa đảm bảo quyền lợi của ông E và không phù hợp với nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng công sức đóng góp đối với quyền sử dụng đất của ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C là ngang nhau nên chia đôi giá trị quyền sử dụng đất là có căn cứ. Riêng về giá trị nhà, Tòa án cấp phúc thẩm xác định căn nhà xây dựng trên thửa đất số 57, tờ bản đồ số 3 là tài sản chung của ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C nhưng cho rằng khi xây dựng nhà ông E bỏ đi nơi khác sống, một mình bà Nguyễn Thị Ngọc C xây dựng hoàn thiện ngôi nhà nên chia cho ông E được hưởng 20% giá trị ngôi nhà là phù hợp.
[22] Về việc định giá tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất tại Tòa án cấp phúc thẩm: trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ Chứng thư thẩm định giá ngày 07/6/2017 của Công ty cổ phần thông tin và thẩm định giá M để xác định giá trị quyền sử dụng đất (gồm thửa đất số 58, 67, 57) là 1.871.856.000 đồng, công trình xây dựng và tài sản trên đất là 1.232.570.000 đồng. Ông E cho rằng việc định giá của Tòa án cấp sơ thẩm là không đúng nên đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành định giá lại các tài sản nêu trên. Tòa án cấp phúc thẩm đã ủy thác cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận tiến hành định giá lại đối với nhà đất đang tranh chấp nhưng cho rằng do bà Nguyễn Thị Ngọc C không hợp tác nên không định giá lại được. Vì vậy, đại diện theo ủy quyền của ông E là bà Lê Nguyễn Vi V mời Công ty cổ phần thông tin và thẩm định giá M định giá lại tài sản thì giá trị quyền sử dụng đất là 3.825.172.400 đồng, công trình xây dựng và tài sản trên đất là 1.232.555.089 đồng (theo Chứng thư thẩm định giá ngày 25/10/2018). Tuy nhiên, Tòa án cấp phúc thẩm xác định việc định giá lại tài sản nêu trên là không cần thiết và giải quyết trên cơ sở kết quả định giá tài sản của Tòa án cấp sơ thẩm là không bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của ông E.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 337, khoản 1 Điều 342, khoản 3 Điều 343, khoản 1, 2 Điều 345 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 10/2021/KN-HNGĐ ngày 23/11/2021 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với Bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 04/2019/HNGĐ-PT ngày 05/3/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về phần xác định và phân chia tài sản chung.
2. Hủy Bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 04/2019/HNGĐ-PT ngày 05/3/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và hủy Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 34/2017/HNGĐ-ST ngày 30/11/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận về phần xác định và phân chia tài sản chung.
3. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm lại về phần xác định và phân chia tài sản chung theo quy định của pháp luật.
NỘI DUNG ÁN LỆ:
“[8] Ông E cho rằng 291,3 m2 đất nêu trên là tài sản chung của vợ chồng nên yêu cầu được chia 1/2 thửa đất. Bà Nguyễn Thị Ngọc C cho rằng diện tích đất trên là tài sản riêng của bà mua từ trước khi kết hôn với ông E, nguồn tiền là của cá nhân bà.
[9] Tuy nhiên, theo xác nhận của bà Trần Thị N thì bà chuyển nhượng thửa đất nêu trên cho vợ chồng ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C. Bà Trần Thị N còn cho rằng do bà Nguyễn Thị Ngọc C nói ông E là người nước ngoài nên không được đứng tên trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và cũng không được mua đất tại Việt Nam. Theo quy định tại Điều 9 Luật Đất đai năm 2003 thì người nước ngoài không được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Việt Nam. Do đó, chỉ có mình bà Nguyễn Thị Ngọc C đứng tên (là bên nhận chuyển nhượng) tại hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên và ngày 22/7/2013, Ủy ban nhân dân huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà Nguyễn Thị Ngọc C là phù hợp với lời khai của ông E và bà Trần Thị N.
[10] Mặc dù Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 09/7/2013 được ký trước khi ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C đăng ký kết hôn (ngày 06/8/2013) nhưng ngày 16/4/2013, ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C đã có tờ khai đăng ký kết hôn và đã tổ chức lễ cưới vào tháng 7/2013.
[11] Do đó, có cơ sở xác định thửa đất số 58, tờ bản đồ số 335 diện tích 219,3 m2 đất là tài sản chung của ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C. Tòa án cấp sơ thẩm xác định là tài sản chung của ông E và bà Nguyễn Thị Ngọc C là có căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm xác định là tài sản riêng của bà Nguyễn Thị Ngọc C là không đúng.”
LÝ DO ĐỀ XUẤT ÁN LỆ
Theo quy định tại Luật HNGĐ năm 2014 thì:
- Khoản 13 Điều 3:
“13. Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân.”
- Khoản 1 Điều 33:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.”
- Điều 43. Tài sản riêng của vợ, chồng
“1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.”
Tuy nhiên, thực tế việc xác định tài sản chung, riêng của vợ chồng trong thực tiễn giải quyết các vụ án hôn nhân gia đình luôn phải được xem xét, đánh giá thận trọng để phù hợp với từng vụ việc.
Trong vụ án lựa chọn đề xuất án lệ này, đối tượng cần xác định là tài sản chung hay riêng của vợ chồng là thửa đất số 58. Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và cấp giám đốc thẩm có những lập luận khác nhau để xác định thửa đất số 58 này là tài sản chung của ông E bà C hay là tài sản riêng của bà C.
Thực tế, ông E và bà C đăng ký kết ngôn ngày 06/8/2013, còn Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất do bà C ký ngày 09/7/2013 là trước thời kỳ hôn nhân theo quy định pháp luật (thời kỳ hôn nhân được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân). Tuy nhiên, thực tế E và bà C đã chung sống với nhau từ trước đó, đã có tờ khai đăng ký kết hôn ngày 16/4/2013 và đã tổ chức lễ cưới tháng 7/2013. Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác nhận chuyển nhượng cho vợ, chồng ông E và bà C. Như vậy, việc Hội đồng Thẩm phán xác định việc ngày 16/4/2013, ông E và bà C đã có tờ khai đăng ký kết hôn và đã tổ chức lễ cưới vào tháng 7/2013 là sự kiện bắt đầu thời kỳ hôn nhân, đồng thời xem xét nội dung lời khai của bà Trần Thị N là người chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà C để xác định thửa đất này là tài sản chung của vợ chồng ông E và bà C là có căn cứ.
Do đó, để hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong việc giải quyết các vụ việc có tình huống pháp lý tương tự thì việc phát triển quyết định giám đốc thẩm này thành án lệ là cần thiết.
[I] Dự thảo án lệ này do Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học đề xuất.
Nguồn: Trang tin điện tử về án lệ (anle.toaan.gov.vn)
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Từ 01/7/2025: 3 thay đổi lớn về chi phí tố tụng mà luật sư tranh tụng cần lưu ý
Ngày 11/12/2024, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Chi phí tố tụng số 05/2024/UBTVQH15, thay thế Pháp lệnh năm 2012. Văn bản mới có hiệu lực từ ngày 01/7/2025 với nhiều quy định quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tranh tụng tại Tòa án.
Dưới đây là 3 điểm luật sư tranh tụng cần đặc biệt lưu ý:
1. Thù lao cho bào chữa viên nhân dân: 700.000 đồng/ngày
Theo quy định tại Điều 49, 50 và Danh mục chi phí tố tụng ban hành kèm theo Pháp lệnh, mức chi thù lao cho bào chữa viên nhân dân là 700.000 đồng/người/ngày.
Ngoài ra, bào chữa viên còn được chi trả các khoản:
- Chi phí đi lại
- Chi phí thuê phòng nghỉ
- Phụ cấp lưu trú
- Chi phí phát sinh khác (nếu có)
Khoản tiền này do cơ quan chỉ định người bào chữa (như Tòa án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát…) chi trả từ ngân sách nhà nước.
2. Phụ cấp xét xử cho Hội thẩm: 900.000 đồng/ngày
Hội thẩm nhân dân khi tham gia phiên tòa hoặc nghiên cứu hồ sơ theo sự phân công sẽ được hưởng phụ cấp xét xử là 900.000 đồng/ngày (theo Điều 47).
Nguồn chi được Tòa án bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước hằng năm, đảm bảo thực hiện đầy đủ, đúng chế độ.
3. Cơ quan tiến hành tố tụng phải tạm ứng chi phí giám định hình sự
Từ ngày 01/7/2025, cơ quan ra quyết định trưng cầu giám định trong vụ án hình sự sẽ có trách nhiệm:
- Tạm ứng chi phí giám định theo thông báo của đơn vị giám định
- Chi trả khoản chi phí đó sau khi giám định hoàn tất (Điều 42, 43, 44)
Riêng trường hợp vụ án bị đình chỉ hoặc bị cáo được tuyên không có tội, người bị hại yêu cầu khởi tố sẽ phải hoàn trả lại khoản chi phí giám định. Ngoài ra, nếu người có quyền lợi liên quan yêu cầu giám định, họ sẽ tự chịu chi phí.
Tổng kết
Các quy định mới trong Pháp lệnh Chi phí tố tụng 2024 sẽ tác động trực tiếp đến luật sư, thân chủ và hoạt động tố tụng tại Tòa. Việc nắm bắt sớm và chính xác các khoản chi phí là yếu tố quan trọng giúp luật sư:
- Tư vấn đầy đủ cho khách hàng
- Chủ động trong quá trình tố tụng
- Đảm bảo quyền lợi hợp pháp của thân chủ
Pháp lệnh 05/2024/UBTVQH15 có hiệu lực từ ngày 01/7/2025.
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Tìm hiểu bài này nếu bạn có ý định chuyển hướng sự nghiệp từ môi trường Công ty luật sang Pháp chế doanh nghiệp
Tìm hiểu thêm:
LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP CHO LUẬT SƯ: Khác biệt giữa làm việc tại HÃNG LUẬT và PHÁP CHẾ? (phần 1)
LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP CHO LUẬT SƯ: Khác biệt giữa làm việc tại HÃNG LUẬT và PHÁP CHẾ? (Phần 2/2)
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Nếu là một luật sư đang tìm kiếm con đường thăng tiến trong sự nghiệp, hẳn bạn đã từng phân vân giữa môi trường làm việc tại Công ty luật (law firm) hay là tại vị trí Pháp chế doanh nghiệp (in-house). Sự phân vân quả thực là có cơ sở. Mỗi môi trường đều có những đặc thù riêng, yêu cầu khác nhau và mở ra những cơ hội phát triển khác biệt.
Bài viết phân tích sau đây sẽ giúp bạn có thêm góc nhìn của từng lựa chọn và chuẩn bị sẵn sàng cho một lộ trình sự nghiệp vững chắc và phù hợp với chính mình.
1. Sự khác biệt về môi trường làm việc
1.1 Văn hóa làm việc
Văn hóa làm việc là yếu tố then chốt ảnh hưởng đến sự gắn bó và phát triển nghề nghiệp của một luật sư trong cả hai môi trường. Không chỉ là nhịp độ công việc, sự khác biệt còn nằm ở cách phối hợp nội bộ, cách trao đổi thông tin và cách ra quyết định.
Tại Công ty luật
Nếu bạn là người thích môi trường làm việc năng động, chuyên nghiệp, có tính cạnh tranh, thích đối mặt với những thử thách pháp lý phức tạp, môi trường làm việc tại Công ty luật có thể là lựa chọn lý tưởng. Công ty luật hoạt động như một tổ chức dịch vụ chuyên nghiệp, đề cao sự chính xác và cẩn trọng trong chuyên môn. Tại đây, bạn sẽ làm việc với nhiều khách hàng khác nhau trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề và tiếp xúc, xử lý các vụ tranh chấp, tư vấn giao dịch, hoặc các vấn đề pháp lý quan trọng từ góc độ cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng của mình.
Cạnh tranh trong Công ty luật rất khốc liệt và bạn sẽ phải cạnh tranh với các đồng nghiệp của mình. Tại 1 số công ty luật và tùy từng vị trí, càng lên cao, bạn càng được đánh giá qua số giờ làm việc có thể tính phí, khả năng thu hút khách hàng và hiệu suất công việc. Nhịp độ làm việc nhanh, khối lượng công việc lớn và không hiếm khi bạn phải ở lại văn phòng xử lý công việc để đáp ứng yêu cầu về tiến độ của khách hàng.
Pháp chế doanh nghiệp
Nếu bạn muốn tham gia vào quá trình ra quyết định của doanh nghiệp và đồng hành cùng một tổ chức lâu dài thì vai trò pháp chế có thể phù hợp hơn. Văn hóa trong bộ phận pháp chế doanh nói chung mang tính liên kết và hợp tác nội bộ nhiều hơn so với Công ty luật.
Tại đây, bạn tập trung vào việc hỗ trợ pháp lý cho công ty, khi đó khách hàng của bạn là các phòng ban nội bộ của công ty. Bạn không còn làm việc để phục vụ khách hàng bên ngoài mà là để hỗ trợ các phòng ban nội bộ đạt mục tiêu. Điều này yêu cầu bạn phải nắm bắt về về mô hình kinh doanh, quy trình, chính sách nội bộ, quan hệ giữa các phòng ban và các vấn đề khác không chỉ đơn thuần là các điều luật.
Khác với khi làm việc tại Công ty luật, bạn không có áp lực billable hours nhưng phải chịu trách nhiệm đảm bảo công ty luôn tuân thủ pháp luật và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Khi công ty gặp vấn đề pháp lý, áp lực lên bạn có thể rất lớn.
1.2. Áp lực công việc
Tại Công ty luật
Ngoài áp lực cạnh tranh với đồng nghiệp, bạn sẽ đối mặt với áp lực doanh số và deadline của khách hàng khi làm việc tại Công ty luật. Trong số mảng đặc thù như tư vấn M&A, tài chính, hoặc tranh tụng, khối lượng công việc có thể biến động mạnh, nhất là trong các giao dịch quan trọng của khách hàng hoặc các vụ tranh chấp lớn, đặc biệt là trong các giai đoạn cao điểm
Pháp chế doanh nghiệp
Công việc pháp chế trông có vẻ ổn định hơn nhưng vẫn đầy thách thức không kém. Bạn cần có khả năng cân bằng giữa tuân thủ pháp luật và đáp ứng nhu cầu kinh doanh, một nhiệm vụ không hề đơn giản. Một trong những thách thức lớn nhất của luật sư pháp chế là phải đảm bảo doanh nghiệp tuân thủ pháp luật, chính sách nội bộ nhưng đồng thời không làm cản trở các hoạt động kinh doanh.
Ví dụ: Các phòng ban như kinh doanh, marketing, tài chính, mua hàng, vận hành có thể đưa ra các đề xuất, sáng kiến, dự án mới để thúc đẩy doanh thu hay chỉ đơn giản là thực hiện các công việc của các bộ phận này. Họ sẽ tìm đến bạn, một thành viên của bộ phận pháp chế doanh nghiệp, để được tư vấn sớm hoặc thậm chí là đã triển khai rồi mới tìm đến bạn.
Thông thường kỳ vọng của họ sẽ là bộ phận pháp chế phải phân tích khả thi, đánh giá rủi ro và tư vấn phương án tuân thủ nhưng không làm gián đoạn hoạt động họ muốn triển khai. Nếu nói "không" nhiều lần, rất có thể bạn sẽ bị nhìn nhận là người gây khó dễ hoặc thiếu tinh thần hỗ trợ. Nhưng nếu nói "có", bạn phải sẵn sàng chịu trách nhiệm cho lời tư vấn của mình, đặc biệt nếu sau đó phát sinh rủi ro và hậu quả pháp lý. Điều này yêu cầu bạn phải có nền tảng vững vàng về chuyên môn pháp lý, vừa có tư duy linh hoạt và khả năng giao tiếp tốt, vừa bảo vệ doanh nghiệp và vừa hỗ trợ hoạt động kinh doanh diễn ra suôn sẻ.
Ngoài ra, bộ phận pháp chế doanh nghiệp không thể vắng mặt khi phải xử lý tranh chấp hợp đồng, kiện tụng lao động, hay khi bị cơ quan chức năng thanh tra. Khi xảy ra mâu thuẫn nội bộ, chẳng hạn như xung đột giữa nhân viên và công ty, hay giữa các cổ đông, bạn cũng phải đóng vai trò trung gian để giải quyết vấn đề một cách hợp lý, tránh leo thang thành tranh chấp pháp lý. Trong các trường hợp này, bạn phải phối hợp chặt chẽ với các bộ phận liên quan, quản lý khủng hoảng, làm việc với cơ quan quản lý và tư vấn cho ban lãnh đạo về hướng giải quyết.
1.3. Cách đưa ra ý kiến pháp lý: Chủ động hay hỗ trợ?
Tại Công ty luật
Trong Công ty luật, luật sư thường đưa ra ý kiến pháp lý độc lập. Các ý kiến này chủ yếu phục vụ khách hàng bên ngoài, được trình bày dưới dạng bản tư vấn pháp lý, email tư vấn hoặc lập luận trong hồ sơ tranh tụng. Dù đôi khi khách hàng có thể mong muốn một kết luận "có lợi", nhưng bạn vẫn được kỳ vọng duy trì lập trường trung lập, logic và tuân thủ các quy định pháp luật.
Một khi đã có kết quả công việc, ví dụ như bản tư vấn pháp lý, được gửi cho khách hàng, việc áp dụng như thế nào sẽ nằm sự cân nhắc và quyết định của khách hàng. Nếu khách hàng không có yêu cầu khác, ít khi luật sư phải tham gia vào quá trình thực thi hoặc vận hành các quyết định đó về sau.
Chính vì vậy, sự tách biệt giữa vai trò tư vấn và vận hành trong công ty luật giúp luật sư duy trì tính chuyên môn hóa cao. Tuy nhiên, điều này cũng có thể khiến cho nội dung tư vấn trở nên thiếu thực tiễn nếu luật sư không hiểu sâu bối cảnh cụ thể của doanh nghiệp hoặc ngành nghề mà khách hàng đang hoạt động.
Pháp chế doanh nghiệp
Ngược lại, luật sư pháp chế doanh nghiệp không chỉ đưa ra ý kiến pháp lý mà còn phải giải bài toán phù hợp với vận hành kinh doanh. Điều này đồng nghĩa với việc bạn không chỉ dừng lại ở phân tích quy định pháp luật, mà còn phải cân nhắc đến các yếu tố tài chính, thương mại, nhân sự, quy trình nội bộ và văn hóa doanh nghiệp, con người. Bạn không chỉ chỉ ra rủi ro mà còn phải đề xuất phương án thay thế, linh hoạt và phù hợp với mục tiêu kinh doanh.
Trong nhiều trường hợp, bạn phải ra quyết định trong bối cảnh khi chưa có đầy đủ thông tin hoặc thông tin chưa rõ ràng. Điều này đòi hỏi sự tỉnh táo, khả năng cân nhắc rủi ro đa chiều, và bản lĩnh chịu trách nhiệm với lời tư vấn của mình.
Ví dụ, nếu phòng Sale - Marketing muốn thực hiện một chiến dịch quảng cáo mới nhưng nội dung có khả năng vi phạm quy định cạnh tranh và quảng cáo, bạn không thể đơn thuần trả lời "không được làm". Thay vào đó, bạn cần đề xuất cách điều chỉnh nội dung để đảm bảo tuân thủ mà vẫn đạt được hiệu quả truyền thông mong muốn.
Một ví dụ khác điển hình thể hiện sự khác biệt trong cách tiếp cận xử lý công việc giữa luật sư trong hai môi trường. Nói đến giấy ủy quyền, luật sư nào cũng sẽ biết về sự ủy quyền khi doanh nghiệp muốn ủy quyền cho một cá nhân ký kết hợp đồng hoặc tham gia giao dịch với đối tác.
Trong khi luật sư tại công ty luật có xu hướng tập trung vào hình thức và tính hợp pháp của nội dung trên Giấy ủy quyền theo quy định pháp luật, luật sư pháp chế sẽ cần đánh giá sâu hơn: (1) phạm vi ủy quyền có phù hợp với quy trình nội bộ, cơ chế kiểm soát và phân quyền trong công ty hay không? (2) Việc ban hành giấy ủy quyền trong doanh nghiệp thường đi kèm với việc trình phê duyệt, kiểm tra điều kiện nội bộ và đảm bảo rằng người được ủy quyền thực sự có đủ thẩm quyền theo chính sách nội bộ đã ban hành.
Ngoài ra, bạn còn phải biết truyền đạt ý kiến pháp lý theo cách mà các bộ phận có thể hiểu và áp dụng, tạo ra sự kết nối hiệu quả giữa pháp chế và hoạt động vận hành thực tế của doanh nghiệp.
1.4. Cơ hội phát triển sự nghiệp: Đâu là con đường dài hạn của bạn?
Tại Công ty luật
Nếu bạn muốn thăng tiến nhanh và có thu nhập cao, Công ty luật có thể là lựa chọn hấp dẫn. Bạn có thể tham khảo các báo cáo về mức lương trên thị trường lao động do các công ty tuyển dụng phát hành hàng năm. Con đường sự nghiệp của bạn thường sẽ trải qua một số mốc chính (tên tiếng Anh thường gặp) như: từ Paralegal → Associate → Senior Associate → Partner. Để lên Partner, bạn cần không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn phải có kỹ năng phát triển khách hàng, xây dựng thương hiệu cá nhân và đóng góp vào sự phát triển của công ty luật. Luật sư tại các công ty luật lớn còn có cơ hội trở thành Equity Partner – một vị trí vừa mang tính chuyên môn cao, vừa gắn liền với quyền lợi sở hữu và điều hành trong tổ chức.
Pháp chế doanh nghiệp
Trong môi trường pháp chế doanh nghiệp và tùy thuộc vào cơ cấu nhân sự tại đây, bạn có thể bắt đầu từ vị trí[1]: Chuyên viên pháp lý (Legal Executive hoặc Legal Officer), sau đó thăng tiến lên các vị trí quản lý như Trưởng phòng pháp lý (Legal Manager), Giám đốc pháp lý (Head of Legal), hoặc các vị trí có tên gọi khác nhau như là General Counsel hay là Vice President.
Tùy theo nhu cầu của doanh nghiệp, vị trí luật sư pháp chế còn có thể mở rộng phạm vi hoạt động sang các lĩnh vực khác như Tuân thủ (Compliance), Quản trị rủi ro (Risk management), Quan hệ chính phủ (Governmental Affairs), Đối ngoại (Public Affairs).
Ở các cấp bậc cao, bạn không chỉ phụ trách pháp lý thuần túy mà còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình ra quyết định chiến lược, xây dựng cơ chế kiểm soát nội bộ, quản lý rủi ro tổng thể và thậm chí tham gia điều hành doanh nghiệp ở cấp cao. Đây là các vị trí đòi hỏi năng lực quản trị, khả năng phối hợp giao tiếp và tư duy chiến lược.
Điểm khác biệt then chốt chúng ta có thể nhìn thấy là luật sư công ty luật phát triển theo “chiều sâu chuyên môn và xây dựng danh tiếng nghề nghiệp”, còn luật sư pháp chế phát triển theo “chiều rộng quản trị và vai trò chiến lược trong tổ chức”.
2. Thách thức khi chuyển môi trường làm việc từ Công ty luật sang Pháp chế doanh nghiệp
Việc chuyển từ môi trường làm việc từ công ty luật sang pháp chế doanh nghiệp không chỉ là sự thay đổi về môi trường làm việc, mà còn là một sự chuyển đổi toàn diện về tư duy, vai trò và phương thức vận hành công việc. Dưới đây là những thách thức điển hình mà một luật sư có thể đối mặt khi thực hiện bước chuyển này:
2.1. Chuyển vai từ luật sư tư vấn sang cố vấn nội bộ
Trong công ty luật, luật sư thường làm việc theo yêu cầu cụ thể từ khách hàng và phản hồi mang tính độc lập. Trong khi đó, tại doanh nghiệp, bạn không chỉ đưa ra tư vấn mà còn phải chủ động phát hiện rủi ro, xây dựng quy trình phòng ngừa và đồng hành với hoạt động nội bộ. Sự thay đổi từ phản ứng sang chủ động này đòi hỏi tư duy chiến lược và hiểu sâu hệ thống vận hành.
2.2. Làm việc với nhiều phòng ban
Từ việc chủ yếu phối hợp với các đồng nghiệp cùng chuyên môn trong công ty luật, bạn sẽ chuyển sang môi trường phải làm việc với các bộ phận như tài chính, nhân sự, kinh doanh, vận hành… Mỗi bộ phận có cách làm việc, văn hóa và ưu tiên khác nhau, nên luật sư pháp chế cần có kỹ năng giao tiếp, thuyết phục và diễn giải luật pháp bằng ngôn ngữ dễ hiểu và phù hợp với từng đối tượng, từng đối tượng.
2.3. Làm việc độc lập và đa nhiệm
Nhiều doanh nghiệp – đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ – chỉ có một vị trí pháp chế duy nhất. Bạn sẽ phải một mình đảm nhiệm mọi vấn đề pháp lý từ hợp đồng, lao động, tuân thủ, tranh chấp…, thậm chí phải vừa làm việc với cơ quan nhà nước, vừa hỗ trợ phòng ban nội bộ. Khi cần thuê công ty luật hỗ trợ, bạn vẫn là người chịu trách nhiệm chính và định hướng chiến lược xử lý.
2.4. Nếu phải báo cáo cho cấp trên không phải là luật sư
Khác với công ty luật, nơi bạn báo cáo cho người cùng chuyên môn, ở môi trường doanh nghiệp, vị trí của bạn có thể phải báo cáo cho Giám Đốc Tài Chính, Giám Đốc Nhân Sự hay CEO. Nếu không biết cách trình bày vấn đề theo góc nhìn rủi ro – hiệu quả – ảnh hưởng tài chính, bạn có thể không được đánh giá đúng năng lực hoặc thuyết phục được cấp trên về giải pháp đề xuất của bạn.
2.5 Hiểu và thích nghi với hệ thống nội bộ
Nếu có cơ hội làm việc tại các tập đoàn đa quốc gia (MNC), bạn cần hiểu không chỉ pháp luật Việt Nam mà còn phải tiếp cận với chuẩn mực quốc tế, chính sách tập đoàn trên toàn cầu và khu vực, và cơ chế kiểm soát tuân thủ chặt chẽ. Việc tương tác với các cố vấn pháp lý toàn cầu, báo cáo theo chuẩn mực quốc tế hoặc tham gia hệ thống đào tạo tuân thủ toàn cầu cũng là một thử thách lớn nếu bạn chưa quen với môi trường này.
3. Bí quyết thích nghi khi chuyển môi trường làm việc từ Công ty luật sang môi trường Pháp chế doanh nghiệp
3.1. Chuyển đổi tư duy
Trong Công ty luật, bạn có thể quen với việc giải quyết tranh chấp hoặc xử lý các giao dịch quan trọng. Nhưng khi làm việc trong môi pháp chế, nhiệm vụ của bạn không chỉ là xử lý vấn đề với tâm lý "nên ngăn chặn ngay từ đầu". Thay vào đó, bạn cần có cái nhìn dài hạn, giúp công ty hoạt động tuân thủ mà vẫn đạt được mục tiêu.
Ví dụ điển hình là khi công ty phát triển sản phẩm hoặc dịch vụ mới, thay vì chỉ soát xét hợp đồng đẻ bán hàng và cung cấp dịch vụ, luật sư pháp chế cần đánh giá tổng thể toàn bộ quy trình triển khai: từ quyền sở hữu trí tuệ, điều kiện cấp phép, nội dung quảng cáo, đến cơ chế bảo vệ dữ liệu khách hàng. Bạn là người gác cổng sớm nhất để đảm bảo mọi hoạt động phù hợp với pháp luật và đạt mục tiêu kinh doanh.
3.2. Tư duy linh hoạt – không chỉ nói “Không”
Điều này nói thì dễ nhưng làm sẽ khó. Để cho an toàn, chúng ta có xu hướng tư duy "phân tích rủi ro" quá mức khiến trở thành người luôn nói "không". Trong thực tế, vai trò của luật sư pháp chế được kỳ vọng là đưa ra giải pháp hợp pháp, khả thi và hỗ trợ đạt được mục tiêu. Nếu phải nói "không", bạn cũng cần biết cách nói "không" một cách tinh tế và mang tính xây dựng.
Ví dụ, nếu nhận thấy chương trình khuyến mại của công ty thực hiện sẽ có rủi ro vi phạm pháp luật, thay vì phản ứng ngay bằng lời từ chối cứng nhắc, bạn có thể bắt đầu bằng việc ghi nhận mục tiêu của họ, phân tích rủi ro và sau đó đề xuất phương án điều chỉnh để phù hợp với luật – chẳng hạn như thay đổi hình thức khuyến mại, sửa thể lệ cho phù hợp, hoặc chia nhỏ giai đoạn triển khai.
Điều này không chỉ giúp bạn giữ được vai trò tư vấn tích cực, mà còn tạo được thiện chí và sự tin tưởng từ các phòng ban.
3.3. Phát triển kỹ năng giao tiếp - kỹ năng không thể thiếu nếu muốn được thăng tiến
Trong số các luật sư chúng tôi thường gặp – dù làm việc tại công ty luật hay tại bộ phận pháp chế – họ là người hướng nội (introvert). Điều này là hoàn toàn dễ hiểu, bởi công việc pháp lý vốn đòi hỏi sự tập trung cao độ và tư duy phân tích chuyên sâu.
Tuy nhiên, khi làm pháp chế doanh nghiệp, bạn sẽ là người trực tiếp hỗ trợ các phòng ban nội bộ – là những người không có nền tảng pháp lý. Do đó, bạn cần học cách trình bày rõ ràng, súc tích, đơn giản hóa vấn đề pháp lý theo ngôn ngữ mà các bộ phận có thể hiểu và áp dụng.
Kỹ năng giao tiếp – trình bày – thương lượng với các phòng ban và đặc biệt là với các cấp quản lý như trưởng phòng, giám đốc, ban điều hành – sẽ quyết định bạn có tạo được ảnh hưởng chiến lược hay không. Đây là yếu tố phân biệt giữa một luật sư thuần kỹ thuật và một cố vấn nội bộ đáng tin cậy.
Càng ở vị trí cao, bạn càng phải giao tiếp thường xuyên với lãnh đạo cấp cao, nơi mọi thông điệp cần được trình bày ngắn gọn, có trọng tâm và tập trung vào tác động kinh doanh thay vì thuật ngữ pháp lý chuyên sâu. Tuy nhiên, khi đang còn ở các vị trí thấp hơn, chúng ta cũng cần nhận thức rõ và không ngừng trau dồi để có nhiều cơ hội thăng tiến sau này.
Hãy xem kỹ năng giao tiếp không chỉ là một kỹ năng mềm, mà là năng lực giúp bạn chuyển hóa kiến thức pháp lý và xây dựng vị trí vững chắc trong môi trường pháp chế doanh nghiệp. Đây là kỹ năng không thể thiếu nếu bạn muốn tiến xa trong sự nghiệp.
3.4. Thích nghi với quy trình nội bộ và văn hóa doanh nghiệp
Trong Công ty luật, bạn có thể quen với việc làm theo từng vụ việc, nhưng trong doanh nghiệp, bạn cần hiểu rõ hệ thống quy trình nội bộ, từ phê duyệt hợp đồng, kiểm soát tuân thủ, đến quản lý rủi ro. Bạn cần nắm rõ các quy trình phê duyệt trong doanh nghiệp: ai được ký hợp đồng, khi nào cần ủy quyền, quy trình xét duyệt ngân sách… Việc hiểu cách doanh nghiệp vận hành giúp bạn đưa ra tư vấn có tính thực tế cao hơn và khả thi hơn khi triển khai thay vì chỉ áp dụng các điều khoản một cách máy móc.
Với ví dụ về giấy ủy quyền nêu trên, bạn không chỉ đánh giá hình thức pháp lý mà còn phải xem người được ủy quyền có đúng cấp, đúng quy trình phê duyệt nội bộ chưa, và có rủi ro xung đột hay không.
Một trong những điểm khác biệt lớn giữa Công ty luật và pháp chế doanh nghiệp là cách thức đưa ra quyết định. Trong Công ty luật, bạn có thể có quyền đưa ra ý kiến tư vấn độc lập đối với một vụ việc cụ thể. Nhưng trong doanh nghiệp, quyết định cuối cùng để hành động sẽ do người có thẩm quyền hoặc theo cơ chế phân yêu quyền để đưa ra quyết định. Điều này đòi hỏi bạn phải có khả năng thương lượng, đề xuất phương án khả thi thay vì chỉ đưa ra ý kiến pháp lý đơn thuần.
Các công ty MNC và FDI thường có các chỉ số KPI liên quan đến pháp chế, chẳng hạn như mức độ tuân thủ, thời gian xử lý hợp đồng, hoặc hiệu suất giải quyết tranh chấp. Luật sư pháp chế cần chủ động tìm hiểu những chỉ số này để đưa ra tư vấn sát với nhu cầu kinh doanh.
4. Kết luận
Việc chuyển môi trường làm việc từ Công ty luật sang môi trường pháp chế doanh nghiệp mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng đi kèm với không ít thách thức.
Để thành công, bạn cần chuẩn bị về tư duy, khả năng giao tiếp tốt, hiểu biết sâu về hoạt động kinh doanh và khả năng làm việc trong một hệ thống phức tạp. Khi bạn có thể kết hợp tốt giữa kiến thức pháp lý và tư duy kinh doanh, bạn không chỉ là một luật sư giỏi mà còn là một cố vấn chiến lược thực sự cho doanh nghiệp.
Nếu bạn đang cân nhắc chuyển từ Công ty luật sang pháp chế doanh nghiệp, hãy tự hỏi mình: Bạn có sẵn sàng thay đổi tư duy từ xử lý tranh chấp sang phòng ngừa rủi ro? Bạn có thể làm việc độc lập mà không có sự hỗ trợ của một đội ngũ luật sư? Bạn có đủ kiên nhẫn để giải thích các vấn đề pháp lý theo cách mà lãnh đạo không chuyên về luật có thể hiểu và đưa ra quyết định?
Nếu bạn muốn có một sự chuyển đổi suôn sẻ, hãy bắt đầu bằng việc trau dồi kỹ năng quản trị rủi ro, thương lượng, giao tiếp với lãnh đạo cấp cao và luôn học hỏi không ngừng để hiểu hơn mô hình kinh doanh và các khía cạnh liên quan, kể cả khi không phải là vấn đề pháp lý. Hãy thử kết nối với những người đã đi trước trong lĩnh vực pháp chế, tham gia vào các hội thảo, nhóm về pháp chế doanh nghiệp và không ngừng học hỏi.
Chúc bạn thành công.
[1] Tên gọi các vị trí, phòng ban có thể khác nhau tùy từng công ty
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
[Mới] Cơ chế lựa chọn Chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội không không thông qua đấu thầu
Nhằm tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục hành chính và đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà ở xã hội, Bộ Xây dựng đang dự thảo Nghị quyết của Quốc hội thí điểm về một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội để trình Chính phủ. Một trong những điểm đáng chú ý của dự thảo là cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu đối với các dự án nhà ở xã hội. Chính sách này nhằm đơn giản hóa quy trình đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai dự án và đáp ứng nhu cầu nhà ở của người thu nhập thấp và công nhân lao động, gắn liền với việc thực hiện Đề án Đầu tư xây dựng ít nhất 01 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021-2030.
Hãy cùng Caselaw Việt Nam tìm hiểu chi tiết về cơ chế này để hiểu rõ hơn về các quy định, phạm vi áp dụng và quy trình thực hiện.
1. Cơ sở pháp lý của chính sách
Cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu được xây dựng dựa trên các văn bản pháp luật và định hướng chính sách sau:
- Hiến pháp 2013, trong đó quy định Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm chỗ ở cho công dân.
- Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
- Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021- 2025
- Luật Nhà ở 2023, quy định về chính sách ưu đãi phát triển nhà ở xã hội.
- Luật Đấu thầu 2023, quy định về các trường hợp lựa chọn nhà đầu tư theo cơ chế đặc thù.
- Luật Đầu tư công 2024, điều chỉnh về thủ tục đầu tư và các trường hợp không áp dụng đấu thầu khi lựa chọn nhà đầu tư.
- Chỉ thị số 34-CT/TW năm 2024 của Ban Bí thư về phát triển nhà ở xã hội.
- Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội năm 2025 về thí điểm một số cơ chế đặc thù nhằm phát triển nhà ở xã hội.
2. Các trường hợp giao chủ đầu tư không qua đấu thầu
Theo Dự thảo Nghị quyết, cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu áp dụng cho ba nhóm đối tượng sau
(i) Dự án nhà ở xã hội do UBND cấp tỉnh giao:
- UBND cấp tỉnh có thể giao trực tiếp chủ đầu tư đối với các dự án nhà ở xã hội không thuộc trường hợp do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an hay Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quản lý.
- Việc giao chủ đầu tư dựa trên danh mục dự án đã được công khai trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh, Bộ Xây dựng và Hệ thống thông tin nhà ở và thị trường bất động sản.
- Nhà đầu tư phải có năng lực tài chính, kinh nghiệm và cam kết thực hiện đúng tiến độ.
(ii) Dự án nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân:
- Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có thể giao chủ đầu tư đối với dự án nhà ở phục vụ sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp.
- Chủ đầu tư phải đáp ứng đủ điều kiện theo Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản và Luật Đầu tư.
(iii) Dự án nhà ở xã hội sử dụng nguồn tài chính công đoàn:
- Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam được giao chủ đầu tư đối với các dự án nhà ở xã hội dành cho công nhân, người lao động.
- Việc triển khai phải đảm bảo mức giá nhà ở phù hợp với thu nhập của công nhân và sử dụng nguồn tài chính minh bạch.
3. Quy trình giao chủ đầu tư không qua đấu thầu
Một điểm đáng chú ý trong Dự thảo Nghị quyết là các dự án nhà ở xã hội không phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư. Thay vào đó, văn bản giao chủ đầu tư sẽ thay thế văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư, giúp đơn giản hóa thủ tục hành chính và rút ngắn thời gian triển khai dự án.
Theo quy định tại Điều 31, 32 Luật Đầu tư, các dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội sử dụng vốn ngoài đầu tư công phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư. Tuy nhiên, do các dự án này đã được quản lý thông qua việc phê duyệt quy hoạch, chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở, bố trí quỹ đất và giao chỉ tiêu phát triển nhà ở xã hội, nên Dự thảo Nghị quyết đề xuất miễn thủ tục này nhằm đẩy nhanh tiến độ đầu tư. Việc miễn thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư cũng tương tự như cơ chế đã được áp dụng cho các dự án đường sắt đô thị theo Nghị quyết số 188/2025/QH15, trong đó quy định các dự án được thực hiện ngay việc lập, thẩm định, quyết định đầu tư mà không phải qua bước lập và thẩm định chủ trương đầu tư.
Dự thảo Nghị quyết quy định một quy trình trong việc giao chủ đầu tư nhằm đảm bảo tính công khai và hiệu quả:
- Công bố danh mục dự án: UBND cấp tỉnh hoặc cơ quan có thẩm quyền công bố danh mục dự án nhà ở xã hội trên Cổng thông tin điện tử.
- Tiếp nhận hồ sơ đăng ký: Các doanh nghiệp có đủ năng lực tài chính, kinh nghiệm có thể đăng ký làm chủ đầu tư.
- Xét duyệt và lựa chọn chủ đầu tư: Dựa trên các tiêu chí về năng lực tài chính, kinh nghiệm thực hiện dự án, tiến độ cam kết, phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng.
- Ban hành quyết định giao chủ đầu tư: Sau khi xét duyệt, cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định giao chủ đầu tư, đồng thời thay thế văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư.
4. Một số nội dung liên quan đến cơ chế giao chủ đầu tư
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có thể trực tiếp quản lý các dự án nhà ở xã hội phù hợp với đối tượng thụ hưởng.
Nhà đầu tư được giao chủ đầu tư phải đáp ứng các tiêu chí nhất định theo quy định của Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản và các văn bản hướng dẫn liên quan.
Dự thảo cũng quy định rõ việc công bố thông tin, tiếp nhận hồ sơ và xét duyệt để đảm bảo quá trình giao chủ đầu tư được thực hiện theo đúng quy định.
5. Lộ trình thực hiện
Dự thảo Nghị quyết được dự kiến trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 9 (tháng 4/2025). Nếu được Chính phủ đồng ý, Bộ Xây dựng sẽ phối hợp Bộ Tư pháp và các Bộ liên quan xây dựng Hồ sơ, Dự thảo Nghị quyết để trình Quốc hội.
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Cập nhật: Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội thí điểm về một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội
Bộ Xây dựng đang chủ trì soạn thảo Nghị quyết của Quốc hội thí điểm về một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội (NƠXH) nhằm tháo gỡ vướng mắc và thúc đẩy nguồn cung nhà ở cho người thu nhập thấp. Nghị quyết này được xây dựng với sự phối hợp của các Bộ, ngành và cơ quan liên quan, tập trung vào các chính sách ưu đãi về tài chính, đất đai, thủ tục đầu tư và hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực nhà ở xã hội.
Dự thảo này đưa ra nhiều điều chỉnh quan trọng về cơ chế giao chủ đầu tư, nguồn vốn phát triển NƠXH, ưu đãi tài chính và thủ tục đầu tư xây dựng.
1. Mục tiêu hướng đến của của nghị quyết:
- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng NƠXH bằng cách đơn giản hóa thủ tục đầu tư.
- Tạo cơ chế linh hoạt hơn cho doanh nghiệp tham gia đầu tư.
- Mở rộng nguồn vốn phát triển NƠXH, bao gồm Quỹ phát triển nhà ở xã hội quốc gia.
- Tăng cường hỗ trợ người dân có nhu cầu mua hoặc thuê nhà ở xã hội.
2. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
2.1. Phạm vi điều chỉnh
Nghị quyết này thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù về phát triển nhà ở xã hội trên phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên, không áp dụng đối với dự án NƠXH sử dụng vốn đầu tư công.
Các nội dung thí điểm bao gồm:
- Thành lập Quỹ phát triển nhà ở xã hội quốc gia.
- Giao chủ đầu tư không qua đấu thầu.
- Cơ chế hỗ trợ giải phóng mặt bằng và hạ tầng kỹ thuật.
- Quy định lợi nhuận định mức tối đa cho chủ đầu tư.
2.2. Đối tượng áp dụng
Dự thảo Nghị quyết áp dụng đối với:
- Cơ quan nhà nước liên quan đến phát triển và quản lý NƠXH.
- Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (triển khai nhà ở cho công nhân).
- Doanh nghiệp, hợp tác xã, cá nhân đầu tư xây dựng NƠXH.
- Người dân thuộc diện được hưởng chính sách NƠXH.
3. Những cơ chế, chính sách đặc thù trong Dự thảo Nghị quyết
3.1. Thành lập Quỹ phát triển nhà ở xã hội quốc gia
Dự thảo đề xuất thành lập Quỹ phát triển nhà ở xã hội quốc gia, là quỹ tài chính ngoài ngân sách nhà nước với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước cấp và các nguồn vốn hợp pháp khác. Quỹ này có chức năng:
- Hỗ trợ lãi suất cho vay không yêu cầu thế chấp đối với người dân.
- Hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư xây dựng NƠXH bằng hình thức tín dụng ưu đãi.
- Quản lý quỹ nhà ở xã hội trên cả nước.
3.2. Giao chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội không qua đấu thầu
Theo Dự thảo, các cơ quan sau được quyền giao chủ đầu tư dự án NƠXH mà không cần đấu thầu:
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được giao chủ đầu tư cho các dự án NƠXH trên địa bàn.
- Bộ Quốc phòng, Bộ Công an giao chủ đầu tư cho các dự án NƠXH dành cho lực lượng vũ trang.
- Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam giao chủ đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân bằng nguồn tài chính công đoàn.
Điều này giúp đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án, tránh tình trạng kéo dài do thủ tục đấu thầu phức tạp.
3.3. Hỗ trợ giải phóng mặt bằng và phát triển hạ tầng
Dự thảo quy định sử dụng ngân sách nhà nước và các nguồn vốn hợp pháp khác để:
- Hỗ trợ giải phóng mặt bằng cho các dự án NƠXH.
- Đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật và xã hội đi kèm với NƠXH.
Chính sách này giúp giảm chi phí ban đầu cho chủ đầu tư, khuyến khích doanh nghiệp tham gia phát triển NƠXH.
3.4. Quy định về lợi nhuận định mức tối đa cho chủ đầu tư
Dự thảo đưa ra quy định lợi nhuận định mức tối đa mà chủ đầu tư được hưởng đối với phần diện tích xây dựng NƠXH là 13% tổng chi phí đầu tư xây dựng.
Việc giới hạn lợi nhuận giúp kiểm soát giá thành nhà ở xã hội, đảm bảo mức giá phù hợp cho người thu nhập thấp.
4. Tác động dự kiến của Dự thảo Nghị quyết
4.1. Đối với chủ đầu tư
Dự thảo Nghị quyết mang lại nhiều lợi ích quan trọng cho các doanh nghiệp tham gia đầu tư phát triển nhà ở xã hội. Một trong những điểm đáng chú ý là chính sách hỗ trợ tín dụng ưu đãi, giúp chủ đầu tư dễ dàng tiếp cận nguồn vốn với lãi suất thấp hơn so với thị trường. Điều này góp phần giảm gánh nặng tài chính và thúc đẩy việc triển khai các dự án nhanh chóng hơn.
Bên cạnh đó, cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu giúp rút ngắn thời gian lựa chọn nhà đầu tư, tránh tình trạng chậm trễ do các thủ tục hành chính kéo dài. Việc này tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp sớm triển khai dự án, đáp ứng nhu cầu nhà ở xã hội ngày càng cao.
Ngoài ra, chủ đầu tư còn được hỗ trợ giải phóng mặt bằng và đầu tư hạ tầng kỹ thuật, góp phần giảm chi phí ban đầu và tăng hiệu quả kinh doanh. Chính sách này giúp doanh nghiệp giảm áp lực về tài chính và đảm bảo tiến độ thi công các dự án nhà ở xã hội theo kế hoạch.
4.2. Đối với người dân
Dự thảo Nghị quyết cũng mang lại nhiều tác động tích cực đối với người dân, đặc biệt là các nhóm đối tượng có thu nhập thấp. Nhờ các chính sách kiểm soát giá thành và ưu đãi cho chủ đầu tư, giá bán và giá thuê nhà ở xã hội được điều chỉnh ở mức hợp lý hơn, giúp nhiều người có cơ hội sở hữu hoặc thuê nhà với chi phí phù hợp với khả năng tài chính.
Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp giúp người mua nhà giảm gánh nặng tài chính. Nhờ thời gian vay kéo dài, người thu nhập thấp có thể tiếp cận nhà ở dễ dàng hơn mà không phải lo lắng về áp lực trả nợ trong thời gian ngắn.
Ngoài việc hỗ trợ tài chính, Dự thảo còn tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án nhà ở xã hội. Điều này không chỉ giúp mở rộng nguồn cung mà còn mang đến nhiều lựa chọn hơn cho người dân, từ đó góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và ổn định thị trường nhà ở xã hội trong thời gian tới.
5. Kết luận
Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế thí điểm phát triển nhà ở xã hội mang lại nhiều thay đổi quan trọng nhằm đẩy nhanh tốc độ triển khai dự án NƠXH, hỗ trợ tài chính cho chủ đầu tư và giúp người dân tiếp cận nhà ở với chi phí hợp lý hơn.
Với các cơ chế như thành lập Quỹ phát triển NƠXH, giao chủ đầu tư không qua đấu thầu, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và kiểm soát lợi nhuận, chính sách này được kỳ vọng sẽ giúp thị trường NƠXH phát triển mạnh mẽ hơn trong thời gian tới.
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Bảo vệ dữ liệu cá nhân theo pháp luật Việt Nam: Điều bạn cần biết để an toàn
Dữ liệu cá nhân – nghe thì “luật” đấy, nhưng thực ra nó gần gũi hơn bạn nghĩ. Tên, số điện thoại, email, hay thậm chí ảnh selfie bạn đăng lên mạng đều là dữ liệu cá nhân. Trong thời đại công nghệ, những thông tin này quý như vàng, nhưng cũng dễ bị “đánh cắp” nếu không cẩn thận. May mắn thay, pháp luật Việt Nam đã có những quy định để bảo vệ chúng ta. Bài viết này sẽ giới thiệu cơ bản về bảo vệ dữ liệu cá nhân theo luật Việt Nam, giúp bạn – dù là người mới hay sinh viên luật – hiểu rõ hơn nhé!
Dữ liệu cá nhân là gì? Đừng nghĩ xa xôi!
Theo Nghị định 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân (có hiệu lực từ 1/7/2023), hiểu đơn giản rằng dữ liệu cá nhân là thông tin liên quan đến một người cụ thể, như họ tên, ngày sinh, số CCCD, địa chỉ, hay cả thông tin nhạy cảm như sức khỏe, tài khoản ngân hàng. Nói đơn giản, bất cứ thứ gì “nói lên bạn là ai” đều là dữ liệu cá nhân.
Ví dụ nhé: Bạn đăng ký một ứng dụng mua sắm online, điền tên, số điện thoại, địa chỉ giao hàng. Đó là dữ liệu cá nhân. Hay khi bạn đi khám bệnh, bác sĩ ghi lại tình trạng sức khỏe – đó cũng là dữ liệu cá nhân, nhưng nhạy cảm hơn. Pháp luật bảo vệ để đảm bảo những thông tin này không bị lạm dụng.
Pháp luật Việt Nam bảo vệ dữ liệu cá nhân thế nào?
Trước đây, pháp luật Việt Nam chưa có quy định riêng về dữ liệu cá nhân, mà chỉ rải rác trong các văn bản như Bộ luật Dân sự 2015 hay Luật An toàn thông tin mạng 2015. Nhưng từ khi Nghị định 13/2023/NĐ-CP ra đời, mọi thứ rõ ràng hơn. Đây là văn bản đầu tiên tập trung vào bảo vệ dữ liệu cá nhân, áp dụng cho cả cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức.
Luật yêu cầu:
- Đồng ý trước khi thu thập: Ai muốn lấy dữ liệu của bạn phải xin phép, trừ vài trường hợp đặc biệt (chẳng hạn như cơ quan nhà nước điều tra).
- Sử dụng đúng mục đích: Dữ liệu chỉ được dùng cho việc đã nói rõ, không “tự ý” làm chuyện khác.
- Bảo mật an toàn: Doanh nghiệp phải có biện pháp giữ thông tin của bạn không bị rò rỉ.
Ví dụ: Bạn tải app học tiếng Anh, họ hỏi “Cho phép dùng số điện thoại để gửi thông báo không?”. Bạn đồng ý, họ chỉ được gửi tin học tập, không được tự ý bán số của bạn cho bên quảng cáo kem đánh răng, hoặc cho bọn lừa đảo ở bên Campuchia chẳng hạn. Nếu làm sai, họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Ví dụ thực tế: Khi dữ liệu cá nhân bị “lạm dụng”
Để bạn thấy rõ luật quan trọng thế nào, mình kể một câu chuyện nhé. Giả sử bạn Hùng đăng ký thẻ thành viên ở một siêu thị. Hùng điền tên, số điện thoại, email để được giảm giá. Nhưng vài tuần sau, Hùng nhận hàng tá tin nhắn quảng cáo từ các công ty bảo hiểm, bất động sản – toàn chỗ anh chẳng hề biết! Hóa ra siêu thị đã bán thông tin của Hùng mà không xin phép. Đây là hành vi vi phạm luật, vì theo Nghị định 13/2023, siêu thị phải được Hùng đồng ý trước khi chia sẻ dữ liệu.
Một ví dụ khác: Chị Lan đi làm đẹp ở spa, để lại số điện thoại. Sau đó, thông tin của chị bị lộ, kẻ xấu dùng để lừa đảo, nhắn tin giả danh ngân hàng đòi nợ. Nếu spa không bảo mật dữ liệu tốt, họ phải chịu trách nhiệm.
Quyền của bạn trong việc bảo vệ dữ liệu
Luật không chỉ “bắt” doanh nghiệp mà còn trao quyền cho bạn. Theo Nghị định 13/2023/NĐ-CP, bạn có thể:
- Yêu cầu xóa dữ liệu: Nếu không muốn họ giữ thông tin nữa, bạn có quyền đòi xóa.
- Kiểm tra dữ liệu: Bạn được hỏi họ đang dùng thông tin của mình để làm gì.
- Khiếu nại nếu bị lạm dụng: Nếu dữ liệu bị dùng sai, bạn có thể báo cơ quan chức năng.
Ví dụ: Bạn thấy một ứng dụng cứ gửi tin nhắn rác dù bạn không đồng ý, bạn có thể yêu cầu họ xóa số điện thoại của mình. Nếu họ không làm, bạn báo lên phía công an – họ sẽ xử lý.
Tại sao cần quan tâm?
Với sinh viên luật, hiểu về bảo vệ dữ liệu cá nhân là bước đầu để nắm luật trong thời đại số. Còn với người bình thường, nó giúp bạn tự bảo vệ mình. Dữ liệu cá nhân bị lộ không chỉ phiền toái mà còn nguy hiểm – từ lừa đảo đến mất tiền. Chỉ cần cẩn thận khi chia sẻ thông tin và biết quyền của mình, bạn đã an toàn hơn nhiều.
Giữ dữ liệu như giữ ví tiền – Đừng chủ quan kẻo tiền mất tật mang
Bảo vệ dữ liệu cá nhân theo pháp luật Việt Nam không phải chuyện xa vời, mà là điều bạn gặp hàng ngày. Từ việc đăng ký app, đi khám bệnh, đến mua sắm, luật đều có cách giữ thông tin của bạn an toàn. Hãy nhớ: dữ liệu cá nhân giống như chiếc ví – đừng để ai “móc” mất, và nếu có chuyện gì, pháp luật đứng về phía bạn!
Tác giả: Hà Mạnh Tú
Luật sư cấp cao Công ty TNHH Công nghệ Huawei Việt Nam
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại đối với sản phẩm đường mía (AC02.AD13-AS01)
Giới thiệu tổng quan
Bộ Công Thương đã áp dụng biện pháp chống lẩn tránh phòng vệ thương mại (PVTM), bao gồm chống bán phá giá (CBPG) và chống trợ cấp (CTC), đối với sản phẩm đường mía nhập khẩu từ Lào, Campuchia, Indonesia, Malaysia, và Myanmar. Đây là biện pháp nhằm ngăn chặn tình trạng lẩn tránh các biện pháp phòng vệ trước đó, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh cho ngành sản xuất trong nước. Biện pháp này chính thức có hiệu lực từ ngày 9/8/2022 và dự kiến kéo dài đến ngày 15/6/2026, trừ trường hợp có thay đổi theo quy định pháp luật.
1. Thông tin vụ việc
1.1. Bên yêu cầu
- Công ty Cổ phần Mía đường Sơn Dương
- Công ty Cổ phần Mía đường Sơn La
- Công ty Cổ phần TNHH Công nghiệp KCP Việt Nam
- Công ty Cổ phần Mía đường Cần Thơ
- Công ty Cổ phần Mía đường 333
- Công ty Cổ phần Mía đường Sóc Trăng
1.2. Hàng hóa bị áp dụng biện pháp chống lẩn tránh PVTM
- Tên khoa học: Đường sacarose (sucrose)
- Tên gọi thông thường: Đường cát, đường mía, đường kính, đường thô, đường trắng, đường tinh luyện, đường RE, đường RS
- Phân loại mã HS: 1701.13.00, 1701.14.00, 1701.91.00, 1701.99.10, 1701.99.90, 1702.90.91
(Danh sách mã HS có thể được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tế)
1.3. Xuất xứ hàng hóa bị áp dụng biện pháp PVTM
- Campuchia, Lào, Malaysia, Myanmar, Indonesia
2. Mức thuế và thời gian áp dụng biện pháp
Mức thuế CBPG và CTC
Bảng 1 (AC02.AD13-AS01): Mức thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp (áp dụng từ 9/8/2022 đến 15/6/2026)
Quốc gia |
Thuế CBPG |
Thuế CTC |
Campuchia |
42,99% |
4,65% |
Indonesia |
42,99% |
4,65% |
Lào |
42,99% |
4,65% |
Malaysia |
42,99% |
4,65% |
Myanmar |
42,99% |
4,65% |
Loại trừ áp dụng biện pháp PVTM đối với:
Hàng hóa được sản xuất bởi các công ty sau không thuộc phạm vi áp dụng biện pháp:
- Kampong Speu Sugar Co., Ltd.
- Kasekam Youveakchun Svay Rieng Co., Ltd.
- PT. Kebun Tebu Mas
- Mitr Lao Sugar Company Limited
- Savannakhet Sugar Corporation
- TTC Attapeu Sugar Cane Sole Co., LTD
- Than Daung OO Company Limited
- Ngwe Yi Pale Sugar Company Limited
Thời hạn áp dụng
- Thời gian hiệu lực: Từ 9/8/2022 đến 15/6/2026
- Gia hạn và rà soát: Có thể thay đổi theo các quyết định bổ sung của Bộ trưởng Bộ Công Thương.
3. Tình trạng vụ việc hiện nay
- Hiện tại: Biện pháp chống lẩn tránh biện pháp PVTM đang được áp dụng đối với hàng hóa từ các quốc gia nêu trên.
4. Văn bản pháp luật liên quan đến vụ việc
- Quyết định 1407/QĐ-BCT năm 2024: Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới.
- Quyết định 494/QĐ-BCT năm 2024: Gia hạn thời hạn rà soát nhà xuất khẩu mới.
Các sự kiện đáng chú ý
Thời gian |
Sự kiện |
21/09/2021 |
Khởi xướng điều tra |
01/08/2022 |
Ban hành quyết định áp dụng biện pháp chống lẩn tránh PVTM |
28/03/2023 |
Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới |
11/12/2023 |
Ban hành quyết định rà soát nhà xuất khẩu mới |
11/03/2024 |
Gia hạn thời hạn rà soát nhà xuất khẩu mới |
10/06/2024 |
Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới |
Xem thêm: Toàn cảnh áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại tại Việt Nam – 29 vụ việc từ 2009 đến 2024
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Ra mắt tool tính Thuế chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam
Kính chào Quý khách hàng,
Caselaw Việt Nam trân trọng thông báo tính năng mới: Tính thuế Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam tại https://caselaw.vn/tinh-thue-chong-ban-pha-gia.
Tính năng Tính thuế Chống bán phá giá sẽ là công cụ hữu ích giúp cho các nhà xuất khẩu nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam thực hiện các công việc vốn trước đây đòi hỏi nhiều thời gian để nghiên cứu quy định pháp luật và tham vấn luật sư:
(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam;
(ii) Biết được mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và Tính số tiền thuế Chống bán phá giá;
(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS;
Theo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 ngày 06/04/2016 của Quốc Hội, Thuế chống bán phá giá là thuế nhập khẩu bổ sung được áp dụng trong trường hợp hàng hóa bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong.
(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam
Kết quả kiểm tra sau khi nhập mã HS 8 số:
(ii) Xem mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và tính số tiền thuế Chống bán phá giá:
Dữ liệu tính thuế và công thức tính thuế Chống bán phá giá được các chuyên gia cố vấn của Caselaw Việt Nam tổng hợp chính xác dựa trên các quyết định về áp thuế chống bán phá giá của Bộ Công thương. Sau khi nhập đủ các thông tin vào các ô dữ liệu và bấm nút tính thuế, bạn sẽ biết được chính xác số thuế Chống bán phá giá phải nộp. Kết quả hiển thị đi kèm với các thông tin về: mức thuế suất, thời gian áp thuế, quốc gia bị áp thuế và các công ty xuất khẩu.
(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS:
Tại trang thông chi tiết của mỗi mã HS, ví dụ như mã 29224220, ngoài thông tin về các loại thuế suất như: thuế VAT, thuế nhập khẩu ưu đãi, thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các hiệp định FTA(s), Quý khách hàng sẽ được xem thêm thuế Chống bán phá giá theo từng thời gian, quốc gia xuất khẩu, công ty xuất khẩu.
Caselaw Việt Nam luôn mong muốn mang đến cho Quý khách hàng các tiện ích nhằm hỗ trợ hiệu quả cho công việc.
Chúng tôi rất vui khi được đồng hành cùng Quý khách hàng.
Trân trọng,
Caselaw Việt Nam Team
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
7 mẫu hợp đồng được sử dụng để thực thi quyền sử dụng đất (đặt cọc, góp vốn, cho mượn, chuyển nhượng, thế chấp, hợp tác kinh doanh...)
1. Thỏa Thuận Đặt Cọc Mua Đất Nông Nghiệp
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/BqXxug9SI9/thoa-thuan-dat-coc-mua-dat-nong-nghiep
- Số lượng điều khoản: 4 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
2. Hợp Đồng Hợp Tác Kinh Doanh Góp Vốn Bằng Giá Trị Quyền Sử Dụng Đất
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/ROoRhUD1cN/hop-dong-hop-tac-kinh-doanh-gop-von-bang-gia-tri-quyen-su-dung-dat
- Số lượng điều khoản: 11 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
3. Hợp Đồng Chuyển Nhượng Quyền Sử Dụng Đất Và Tài Sản Gắn Liền Trên Đất (Xây Dựng Cửa Hàng Xăng Dầu)
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/AG0f9aFL00/hop-dong-chuyen-nhuong-quyen-su-dung-dat-va-tai-san-gan-lien-tren-dat-xay-dung-cua-hang-xang-dau
- Số lượng điều khoản: 5 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
4. Hợp Đồng Cho Mượn Đất
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/lIzkSubzKW/hop-dong-cho-muon-dat
- Số lượng điều khoản: 12 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
5. HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở (MS 01)
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/3opJBbrs7V/hop-dong-chuyen-nhuong-quyen-su-dung-dat-va-quyen-so-huu-nha-o-ms-01
- Số lượng điều khoản: 15 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
6. HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC Chuyển nhượng quyền sử dụng đất (MS 01)
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/921tNDPcw6/hop-dong-dat-coc-chuyen-nhuong-quyen-su-dung-dat-ms-01
- Số lượng điều khoản: 8 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
7. HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP Quyền sử dụng đất và căn hộ (MS 01)
- Xem tại: https://caselaw.vn/hop-dong-mau/8D3CfBTSyz/hop-dong-the-chap-quyen-su-dung-dat-va-can-ho-ms-01
- Số lượng điều khoản: 14 điều
- Ngôn ngữ: tiếng Việt
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
Tuyển tập 11 án lệ được Hội Đồng Thẩm Phán TANDTC ban hành trong năm 2018
Đang cập nhật
Cùng chuyên mục
Mới nhất
Xem nhiều
(Dự thảo án lệ số 1) Quyết định GĐT số 01/2017/KDTM-GĐT ngày 1/3/2017 về công nhận hợp đồng thế chấp QSDĐ mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế chấp
Án lệ số /2017/AL về công nhận hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế chấp
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày… tháng … năm 2017 và được công bố theo Quyết định số …/QĐ-CA ngày … tháng … năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số 01/2017/KDTM-GĐT ngày 01-3-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” tại thành phố Hà Nội giữa nguyên đơn là Ngân hàng A với bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn B; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 10 người.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 4 phần “Nhận định của Toà án”
Khái quát nội dung của án lệ:
- Tình huống án lệ 1:
Một bên thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nhưng trên đất còn có tài sản thuộc sở hữu của người khác;hình thức và những nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật.
- Giải pháp pháp lý 1:
Trường hợp này, Tòa án phải xác định hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật.
- Tình huống án lệ 2:
Bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản gắn liền với đất không thuộc sở hữu của người sử dụng đất.
- Giải pháp pháp lý 2:
Trường hợp này, khi giải quyết Tòa án phải dành cho chủ sở hữu nhà trên đất được quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó nếu họ có nhu cầu.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
Điều 342 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương ứng với Điều 318 Bộ luật dân sự năm 2015); Điều 715, Điều 721Bộ luật Dân sự năm 2005; mục 4 khoản 19 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22-02-2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (pháp điển hóa tại khoản 2 Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Từ khóa của án lệ:
“Thế chấp quyền sử dụng đất”; “Trên đất có tài sản của người khác”; “Thỏa thuận xử lý tài sản thế chấp”; “Ưu tiên nhận chuyển nhượng”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 6/10/2011 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là Ngân hàng A trình bày:
Ngày 16-6-2008, Ngân hàng A (sau đây viết tắt là Ngân hàng)và Công ty trách nhiệm hữu hạnB (sau đây viết tắt là Công ty B) ký Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142. Theo đó, Ngân hàng cho Công ty B vay 10.000.000.000 đồng và/hoặc bằng ngoại tệ tương đương. Mục đích cấp tín dụng để bổ sung vốn lưu động phục vụ kinh doanh theo nghề đăng ký của Công ty B.
Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân tổng cộng 3.066.191.933 đồng cho Công ty Btheo các Hợp đồng tín dụng kiêm Khế ước nhận nợ. Tính đến ngày 05-10-2011, Công ty Bcòn nợ gốc và lãi của 03 Khế ước là 4.368.570.503 đồng (trong đó nợ gốc là 2.943.600.000 đồng, nợ lãi là 1.424.970.503 đồng).
Tài sản bảo đảm cho khoản vay nêu trên là nhà, đất [thửa đất số 43, tờ bản đồ số 5I-I-33 (1996)] tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H và bà N (theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 10107490390 do Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 07-12-2000), do ông H, bà N thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Hợp đồng thế chấp này được Phòng công chứng số 6 thành phố Hà Nội công chứng ngày 11-6-2008 và Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm ngày 11-6-2008.
Ngày 30-10-2009, Ngân hàng và Công ty Btiếp tục ký Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200900583. Theo đó, Ngân hàng cho Công ty B vay 180.000 USD. Mục đích vay để thanh toán tiền vận chuyển hàng hóa lô hàng xuất khẩu; thời hạn vay 09 tháng; lãi suất vay 5,1%/năm; lãi suất quá hạn bằng 150%.
Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân đủ số tiền vay 180.000 USD cho Công ty B. Công ty B mới trả cho Ngân hàng số tiền nợ gốc là 100.750 USD và số nợ lãi là 1.334,50 USD. Tính đến ngày 05-10-2011, Công ty Bcòn nợ gốc là 79.205 USD và nợ lãi là 16.879,69 USD. Tổng cộng cả nợ gốc và lãi là 96.120,69 USD.
Tài sản bảo đảm cho khoản vay của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-2009058 gồm:
- Lô hàng 19 xe ô tô tải thành phẩm trọng tải 1,75 tấn hiệu JMP mới 100% trị giá 2.778.750.000 đồng (do Công ty B lắp ráp theo phương thức hàng để kho đơn vị, Ngân hàng giữ Giấy chứng nhân đăng kiểm chất lượng xe xuất xưởng) do Công ty Bthế chấp theo Hợp đồng thế chấpsố 219/2009/EIBHBT-CC ngày 29-10-2009. Hợp đồng thế chấp này được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Cục đăng ký giao dịch bảo đảm thành phố Hà Nội ngày 02-11-2009;
- Số dư tài khoản tiền gửi kỳ hạn 03 tháng trị giá 1.620.000.000 đồng do Ngân hàng phát hành. Do Công ty Bđã thực hiện được một phần nợ vay nên Ngân hàng đã giải chấp số tiền 1.620.000.000 đồng tiền gửi trong tài khoản tiết kiệm của Công ty B, tương ứng với số nợ đã thanh toán.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Ngân hàng xác nhận: đối với khoản vay 180.000 USD, Công ty B đã trả xong nợ gốc; chỉ còn lại nợ lãi là 5.392,81 USD; tài sản bảo đảm là 19 xe ô tô, hiện đã bán 18 chiếc, còn lại 01 chiếc; đề nghị Tòa án cho xử lý nốt chiếc xe còn lại để thu hồi nợ vay còn thiếu.
Ngân hàng yêu cầu Tòa án buộc:
- Công ty Bthanh toán số nợ gốc và lãi bằng VNĐ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 là 4.368.570.503 đồng;
- Công ty Bthanh toán 5.392,81 USD nợ lãi bằng USD của Hợp đồng tín dụng số 1702-LVA-200900583.
Trong trường hợp, Công ty Bkhông thanh toán hoặc thanh toán không đủ đề nghị Tòa án phát mãi tài sản thế chấp là:
- Quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H và bà N;
- 01 xe ô tô tải thành phẩm, trọng tải 1,75 tấn, hiệu JMP mới 100% do Công ty Blắp ráp theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 219/2009/EIBHBT- CC ngày 29-10-2009.
Đại diện bị đơn là anh T - Tổng Giám đốc Công ty B trình bày: Thừa nhận số tiền nợ gốc, lãi và tài sản thế chấp như Ngân hàng trình bày nhưng đề nghị Ngân hàng cho trả nợ dần.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông H và bà N trình bày: Ông bàthừa nhận ký hợp đồng thế chấp nhà, đất số 432 nêu trên để bảo đảm cho khoản vay tối đa là 3.000.000.000 đồng của Công ty B. Hợp đồng thế chấp được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm. Gia đình ông H và bà N cũng đã hỗ trợ Công ty trả được gần 600.000.000 đồng cho khoản vay có tài sản thế chấp là nhà và đất của ông bà. Ông, bà đề nghị Ngân hàng gia hạn khoản nợ của Công ty Bđể Công ty có thời gian phục hồi sản xuất, thu xếp trả nợ cho Ngân hàng; đề nghị Tòa án không triệu tập các con trai, con dâu, con gái và con rể của ông bà đến Tòa án làm việc.
Anh P thay mặt cho những người con, cháu của ông H, bà N đang sống tại nhà, đất số 432 trình bày:
Cuối năm 2010, anh mới biết bố mẹ anh thế chấp nhà đất của gia đình đang ở để bảo đảm cho khoản vay của Công ty B. Sau khi ông H, bà N được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000, anh Pvà anh Q đã bỏ tiền ra xây dựng thêm một ngôi nhà 3,5 tầng trên đất và 16 người trong gia đình hiện đang ở tại nhà, đất số 432 nêu trên. Khi ký hợp đồng thế chấp, Ngân hàng không hỏi ý kiến các anh và những người đang sinh sống tại nhà, đất này. Do đó, anh đề nghị Tòa án không công nhận hợp đồng thế chấp và xem xét số tiền 550.000.000 đồng mà anh em các anh đóng góp vào trả nợ cho Công ty B theo Hợp đồng tín dụng có tài sản bảo đảm là nhà, đất số 432 nêu trên nhưng Ngân hàng tự ý trừ vào khoản vay ngoại tệ có tài sản bảo đảm là 19 xe ô tô là không đúng.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24/9/2013, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng A đối với Công ty TNHH B.
- Buộc Công ty TNHH B phải thanh toán trả cho Ngân hàng A số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142, bao gồm:nợ gốc là 2.813.600.000 đồng; nợ lãi trong hạn là 2.080.977.381 đồng; nợ lãi quá hạntính đến ngày 23-9-2013 là 1.036.575.586đồng; tiền lãi phạt chậm trảtính đến ngày 23-9-2013 là 123.254.156 đồng; Tổng cộng: 6.054.407.123 đồng.
- Buộc Công ty TNHHBphải thanh toán trả cho Ngân hàng A số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800583, gồm số tiền nợ lãi quá hạn là 5.392,81 USD.
Trong trường hợp Công ty TNHH Bkhông trả nợ hoặc trả không đủ số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142, thì Ngân hàng Acó quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật là quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại thửa số 43, tờ bản đồ số 5I-I-33 (1996) theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 10107490390 do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 07-12-2000 cho ông H và bà N tại địa chỉ số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội để thu hồi nợ…
Trường hợp Công ty TNHH Bkhông trả nợ hoặc trả không đủ số tiền nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800583, thì Ngân hàng A có quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo đảm là 01 chiếc xe ô tô tải, trọng tải 1,75 tấn hiệu JMP do Công ty TNHH Blắp ráp theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 219/2009/EIBHBT-CC ngày 29-10-2009 để thu hồi nợ.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 07-7-2014, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định:
Giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về Hợp đồng tín dụng, về các khoản tiền vay và tiền Công ty B phải trả Ngân hàng A;hủy phần quyết định của Bản án sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về phần hợp đồng thế chấp, bảo đảm của người thứ 3, cụ thể:
… Hủy phần quyết định về hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của người thứ 3 (nhà đất số 432, tổ 28 phường E, quận G, thành phố Hà Nội) ký ngày 11-6-2008 tại Phòng công chứng số 6 thành phố Hà Nội và đăng ký tài sản bảo đảm tại Sở tài nguyên và môi trường thành phố Hà Nội ngày 11-6-2008…
Giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xác minh, thu thập chứng cứ và xét xử lại, xác định phần tài sản hợp pháp thuộc sở hữu của ông H, bà N làm tài sản thế chấp bảo đảm cho Công ty TNHH B đối với khoản tiền vay ở Ngân hàng A theo Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 ngày 16-6-2008.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.
Sau khi xét xử phúc thẩm, Ngân hàng, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có văn bản đề nghị xem xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.
Tại Kháng nghị giám đốc thẩm số 14/2016/KDTM-KN ngày 12-4-2016, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 7-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 7-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xử hủy bản án phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Hồ sơ vụ án thể hiện, để đảm bảo cho khoản vay theo Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 ngày 16-6-2008 tại Ngân hàng của Công ty B do anh T là con trai ông H, bà N làm Giám đốc, thì ngày 11-6-2008, ông H và bà N đã thế chấp nhà, đất tại số 432,tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H, bà N theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Hợp đồng thế chấp này được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật.
[2] Theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 07/12/2000, thì nhà, đất tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội (sau đây viết tắt là nhà, đất số 432), gồm: diện tích đất ở 147,7 m2, diện tích nhà ở 85 m2, kết cấu nhà: bê tông và xây gạch; số tầng: 02+01. Khi thẩm định tài sản thế chấp, Ngân hàng biết trên diện đất 147,7 m2 ngoài căn nhà 02 tầng đã được đăng ký sở hữu, còn có căn nhà 3,5 tầng chưa đăng ký sở hữu nhưng Ngân hàng chỉ định giá quyền sử dụng đất và căn nhà 02 tầng đã đăng ký sở hữu với tổng giá trị nhà, đất là 3.186.700.000 đồng, mà không thu thập thông tin, tài liệu để xem xét làm rõ nguồn gốc cũng như ai là chủ sở hữu căn nhà 3,5 tầng là thiếu sót, không đảm bảo quyền lợi của các đương sự.
[3] Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 06-6-2012, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ, xác định: nhà, đất số 432 có 02 khối nhà (gồm: khối nhà thứ nhất: diện tích chiếm đất là 37,5 m2, chiều dài 5,9 m, chiều rộng 6,35 m; khối nhà thứ hai là nhà bê tông ba tầng có ban công, diện tích 61,3 m2) và hiện có 16 người thường trú, đăng ký dài hạn, thường xuyên sinh sống. Trước khi xét xử sơ thẩm, ngày 21-9-2013, anh P (con trai ông H, bà N) có Đơn kiến nghị gửi Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cho rằng sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000, do khó khăn về chỗ ở, năm 2002, gia đình ông H, bà N đã thống nhất để anh P và những người con của ông H, bà N bỏ tiền ra xây dựng thêm căn nhà 3,5 tầng bên cạnh căn nhà 02 tầng cũ trên thửa đất nói trên. Như vậy, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội biết trên thực tế hiện trạng thửa đất khi thế chấp đã có 02 căn nhà (căn nhà 02 tầng cũ và căn nhà 3,5 tầng) không đúng theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000 và Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Khi giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có xem xét yêu cầu của anh P và những người con ông H, bà N liên quan đến căn nhà 3,5 tầng nhưng Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội không quyết định rõ có xử lý phát mãi căn nhà 3,5 tầng hay không là không đúng, không đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự.
[4] Theo quy định tại mục 4 khoản 19 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm: “Trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất không đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì khi xử lý quyền sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được tiếp tục sử dụng đất theo như thỏa thuận giữa người sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Quyền và nghĩa vụ giữa bên thế chấp và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được chuyển giao cho người mua, người nhận chính quyền sử dụng đất”. Trong vụ án này, khi ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, bên thế chấp (ông H, bà N) và bên nhận thế chấp (Ngân hàng) đều biết rõ trên thửa đất của ông H, bà N ngoài căn nhà 02 tầng đã được đăng ký quyền sở hữu thì trên đất còn có một căn nhà 3,5 tầng chưa được đăng ký quyền sở hữu nhưng các bên chỉ thỏa thuận thế chấp tài sản gồm quyền sử dụng đất và căn nhà 02 tầng gắn liền với đất. Trường hợp trên đất có nhiều tài sản gắn liền với đất mà có tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất, có tài sản thuộc sở hữu của người khác mà người sử dụng đất chỉ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình, hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật thì hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm xác định Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008 có một phần bị vô hiệu (phần có căn nhà 3,5 tầng); xử hủy phần quyết định của bản án sơ thẩm về phần hợp đồng thế chấp và giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xác minh, thu thập chứng cứ xác định phần tài sản hợp pháp thuộc sở hữu của ông H, bà N và xét xử lại là không đúng. Lẽ ra, với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm cần xem xét, quyết định về xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và căn nhà thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông H, bà N theo quy định của pháp luật. Khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm cần yêu cầu đương sự cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh nguồn gốc hình thành căn nhà 3,5 tầng nêu trên để giải quyết vụ án bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho những người đã bỏ tiền ra xây dựng nhà và đang sinh sống tại đó. Đồng thời, Tòa án cấp phúc thẩm cần hỏi ý kiến, động viên, khuyến khích các đương sự thỏa thuận xử lý tài sản thế chấp. Trường hợp bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng diện tích đất mà trên đất có nhà thuộc sở hữu của người khác không phải là người sử dụng đất thì cần dành cho chủ sở hữu nhà đó được quyền ưu tiên nếu họ có nhu cầu mua (nhận chuyển nhượng).
[5] Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ theo thỏa thuận của các bên tại khoản 5.4 Điều 5 Hợp đồng tín dụng về lãi phạt chậm trả trên số lãi chưa thanh toán “lãi phạt chậm trả là quá 10 ngày kể từ ngày đáo hạn, mức lãi phạt là 2% trên số lãi chưa thanh toán; quá 30 ngày kể từ ngày đáo hạn, mức lãi phạt là 5% trên số lãi chưa thanh toán” để chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng buộc Công ty B phải trả số tiền lãi phạt chậm trả123.254.156 đồng là không đúng pháp luật, không được chấp nhận vì đây là lãi chồng lãi. Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện ra sai sót này, vẫn giữ nguyên quyết định này của bản án sơ thẩm cũng là không đúng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 337, khoản 3 Điều 343, Điều 345 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự;
1. Chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm số 14/2016/KDTM-KN ngày 12-4-2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
2. Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 07-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội về vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng A, bị đơn là Công ty TNHH B và 10 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
3. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm đúng quy định của pháp luật.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“[4] Trường hợp trên đất có nhiều tài sản gắn liền với đất mà có tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất, có tài sản thuộc sở hữu của người khác mà người sử dụng đất chỉ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình, hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật thì hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật…
…Trường hợp bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng diện tích đất mà trên đất có nhà thuộc sở hữu của người khác không phải là người sử dụng đất thì cần dành cho chủ sở hữu nhà đó được quyền ưu tiên nếu họ có nhu cầu mua (nhận chuyển nhượng).”
(nguồn: anle.toaan.gov.vn)