cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

31/2009/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1258
  • 8

Ly hôn

28-09-2009
TAND cấp tỉnh

Anh NĐ_Võ Thanh Phi trình bày: Anh và chị BĐ_Lê Thị Thùy được hai gia đình tổ chức cưới vào năm 1999, không có đăng ký kết hôn và đến tháng 5/2007 anh và chị BĐ_Thùy ly thân cho đến nay. Nguyên nhân là sau khi cưới về sống chung với gia đình anh, chị BĐ_Thùy thường hay bỏ về nhà cha mẹ ruột, khi cưới chị BĐ_Thùy, cha mẹ anh là ông LQ_Võ Tấn Hồng - bà LQ_Nguyễn Thị Si cho 10 chỉ vàng 24K do chị BĐ_Thùy giữ, đến năm 2006 cha mẹ anh cất nhà cho ra ở riêng ở khu dân cư chợ Phú Điền và cha mẹ anh có cho 05 công đất ruộng, năm 2007 làm ruộng bán được 18.700.000đ, sau khi bán lúa chị BĐ_Thùy bỏ nhà đi và mang theo số tiền bán lúa, anh và chị BĐ_Thùy có một nền nhà ở chợ Phú Điền do anh đứng tên.


107/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 929
  • 13

Đòi lại tài sản

31-08-2009
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn, ông NĐ_Nguyễn John xác định yêu cầu khởi kiện như sau: Ông là người gốc Việt có quốc tịch Hoa kỳ về Việt Nam sinh sống từ năm 2000. Từ khi về Việt Nam ông có quen biết với bà BĐ_Phạm Thị Kim Phượng và đã đưa cho bà BĐ_Phượng giữ một số tài sản, gồm: 275 lượng vàng SJC và 24.500USD. Số tài sản trên được đưa nhiều lần và không làm giấy tờ biên nhận. Mục đích ông đưa tiền, vàng là để bà BĐ_Phượng mua đất giùm ông, do ông là Việt Kiêu nên không được phép đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thực tế, bà BĐ_Phượng không mua đất nên hai bên có thỏa thuận như sau: bà BĐ_Phượng sẽ trả số tiền, vàng nêu trên cho ông vào ngày 15/8/2002. Đúng hẹn, bà BĐ_Phượng không thực hiện thỏa thuận. Khoảng tháng 10/2002, bà BĐ_Phượng có trả cho ông 31 lượng vàng SJC và 24.500USD, hai bên không làm giấy tờ biên nhận.


100/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1525
  • 24

Tranh chấp hợp đồng chơi hụi

25-08-2009
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn, bà NĐ_Nguyễn Thị Thắm xác định yêu cầu cầu khỏi kiện như sau: Bà và một số người quen biết và rủ nhau cùng chơi hụi. Mục đích của chơi hụi là góp vốn cho nhau dựa trên cơ sở tự nguyện của các bên. Do được tin tưởng nên mọi người cử Bà làm chủ hụi, là người có trách nhiệm thu tiền hụi của các thành viên để đưa cho người hốt hụi. Người hốt hụi phải chi cho bà số tiền là 50% trên mệnh giá của phần hụi, ví dụ hụi 1.000.000 đồng một phần thì khi hốt hụi thành viên nào được hốt sẽ chi cho Bà 500.000 đồng gọi là tiền hoa hồng. Chủ hụi là người ghi và giữ sổ hụi và khi bắt đầu tổ chức dây hụi thì chủ hụi có trách nhiệm ghi cho mỗi thành viên một tờ giấy để theo dõi, nội dung tờ giấy ghi ngày tháng năm bắt đầu chơi, tên các thành viên chơi hụi, tổng số phần hụi, nếu có tranh chấp thì các thành viên căn cứ vào tờ giấy ghi hụi sẽ gặp chủ hụi để giải quyết. Mọi người thoả thuận bằng miệng với nhau về cách chơi.


51/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1173
  • 11

Tranh chấp quyền sử dụng đất

08-05-2009
TAND cấp tỉnh

Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Tuân trình bày: Diện tích đất khoảng 4.293m2 hiện gia đình ông BĐ_Nguyễn Văn Nết, bà BĐ_Nguyễn Thị Hồng và bà BĐ_Nguyễn Thị Linh đang ở và canh tác là 01 phần trong tổng diện tích đất của ông ở thửa 63, 80, 81, tờ bản đồ số 15, ấp Phú Thạnh, xã MX, huyện TT, tỉnh BR - VT. Đất này ông nhờ vợ chồng bà LQ_Nguyễn Thị Sương và ông LQ_Phạm Văn Tình mua hộ từ năm 1992 và giao cho vợ chồng ông LQ_Tình trông coi. Sau đó ông LQ_Tình bà LQ_Sương làm giấy sang lại đất cho ông vào ngày 3.3.1992, có xác nhận của chính quyền địa phương. Năm 1994, bà LQ_Sương có cho vợ chồng ông BĐ_Nết, bà BĐ_Hồng mượn 30m2 đất để xây nhà ở, hẹn trong vòng 6 tháng sẽ trả (có làm giấy tay ngày 9.1.1994) nhưng khi đến hạn ông nhiều lần đòi lại đất mà vợ chồng ông BĐ_Nết không trả. Năm 1998, ông đã được UBND Huyện TT cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2002, LQ_Ủy ban nhân dân xã MX cấp nhà tình thương cho gia đình ông BĐ_Nết xây trên đất của ông. Đất đang tranh chấp với gia đình ông BĐ_Nết là tài sản riêng của ông, không liên quan đến vợ ông và vợ ông đã có văn bản xác nhận điều này.


10/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 541
  • 6

Tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất

12-02-2009
TAND cấp tỉnh

Ngày 06/10/2003, vợ chồng bà NĐ_Hảo, ông LQ_Dũng cùng với vợ chồng ông LQ_Lê Quốc Nam, bà LQ_Nguyễn Thị Thu Trang và vợ chồng bà BĐ_Dương Thị Thúy, ông BĐ_Lê Quốc Đạt hùn vốn chuyển nhượng của ông Phạm Văn Phòng diện tích đất 10.046m2 thuộc thửa 585, tờ bản đồ 24 tọa lạc tại xã HL, thị xã BR. Mỗi bên góp vốn 114.666.667 đồng. Bà NĐ_Hảo đại diện ký hợp đồng chuyển nhượng đất với ông Phòng và đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, còn ông LQ_Nam là Người giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Các bên thỏa thuận mọi biến đổi về lô đất phải có ý kiến bàn bạc chung, không ai tự ý làm riêng. Năm 2006, vợ chồng bà NĐ_Hảo hỏi ông LQ_Nam về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông LQ_Nam quanh co nên vợ chồng Bà đến xem đất.