244/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1761
- 66
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ông NĐ_Sang yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông BĐ_Ba với ông LQ_Chiết phần đất 1.176,8m2, hủy hợp đồng tặng cho giữa ông BĐ_Ba với ông LQ_Sinh phần đất 968,6m2 để nhập vào phần đất còn lại của ông BĐ_Ba để chia thừa kế. Như vậy ông NĐ_Sang yêu cầu chia thừa kế phần đất diện tích 3.369,6m2. Ông NĐ_Sang, bà LQ_Bình, bà LQ_Na, ông LQ_Tấn yêu cầu chia chung 1 thửa lớn rồi tự chia suất riêng. Ông NĐ_Sang, bà LQ_Bình, bà LQ_Na, ông LQ_Tấn tự nguyện bồi thường tiền cát ông BĐ_Ba đã san lấp là 20.000.000 đồng. Đối với số cây trên đất thì ông BĐ_Ba, ông LQ_Chiết, ông LQ_Sinh tự di dời.
243/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1179
- 38
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Nguồn gốc phần đất đang tranh chấp diện tích 137.384 m2 là của cụ Ngô Văn Ba và cụ Nguyễn Thị Ca có từ trước giải phóng. Năm 1977 ông Ba chết, bà NĐ_Ngô Thị Anh sống chung với cụ Ca và canh tác. Năm 1995 bà NĐ_Anh được ủy ban nhân dân huyện TM, tỉnh ĐT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 20/04/1998 cụ Ca làm di chúc cho bà NĐ_Anh toàn bộ phần đất nhưng anh BĐ_Nguyễn Văn Hào và chị BĐ_Ngô Thị Hạnh Diễm chiếm hết đất vườn tạp trong phần diện tích 137.384 m2 mà bà NĐ_Anh được sử dụng. Nay bà NĐ_Anh đồng ý cho anh BĐ_Nguyễn Văn Hào và chị BĐ_Ngô Thị Hạnh Diễm sử dụng phần đất vườn tạp ngang 4m X dài 62m (phần anh BĐ_Hào, chị BĐ_Diễm đang ở) và yêu cầu anh BĐ_Hào, chị BĐ_Diễm trả phần đất lấn chiếm còn lại.
166/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 929
- 30
Theo đơn khởi kiện ngày 22/4/2006 nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Diện trình bày: Bà NĐ_Diện và ông BĐ_Nguyễn Văn Thiện cưới nhau năm 1981. Thời gian chung sống có được 03 người con chung gồm: Anh LQ_Nguyễn Văn Khanh, sinh năm 1985; Chị Nguyễn Thị Hiểu, sinh năm 1986 và anh LQ_Nguyễn Văn Lãnh, sinh năm 1988. Ông BĐ_Thiện đã có vợ khác và thường xuyên đánh đập bà, ông BĐ_Thiện bỏ nhà đi khoảng 03-04 năm nay, bà xin được ly hôn và yêu cầu được chia đều toàn bộ tài sản chung. Tài sản chung của vợ chồng gồm có 22 công đất, ông BĐ_Thiện chia cho 2 đứa con riêng 10 công, còn lại 12 công và 3600m2 đất ở bà yêu cầu được giữ lại để nuôi con.
309/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1972
- 99
Khi giải quyết lại vụ án, trong trường hợp không có chứng cứ nào mới khác làm thay đổi nội dung vụ án thì cần bác yêu cầu của bà LQ_Cổ Tuyết Viên và ông BĐ_Trương Vĩnh Tân về việc xác định bà LQ_Viên là con nuôi của cụ Cổ Phát và cụ Chung Tam Muội; chấp nhận yêu cầu của ông NĐ_Lương Quảng Huy và anh NĐ_Lương Tuấn Vinh, công nhận di chúc ngày 27/8/2010, đồng thời buộc ông BĐ_Trương Vĩnh Tân không được ngăn cản ông NĐ_Huy quản lý, sử dụng căn nhà số 99 Tuệ Tĩnh, phường 13, Quận Y, thành phố HCM. Với những phân tích, nhận định trên, xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là có căn cứ nên cần chấp nhận
04/2014/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 575
- 26
Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
Nguồn gốc đất đang tranh chấp có diện tích 280m2 (ngang 7m x dài 40m) tọa lạc tại số 12), khu phố 3, phường TH, thành phó BH, tỉnh ĐN là do bà NĐ_Đỗ Thị Lan (me ruột ông bà) khai phá vào năm 1954, bà NĐ_Lan xây dựng 01 căn nhà mái lợp tôn, nền xi măng. Năm 1970, bà NĐ_Lan làm thêm 01 căn nhà gỗ lợp tôn ở phía trước đế buôn bán, sau đó cho vợ chồng ông BĐ_Lê Văn Cường, bà BĐ_Dương Thị Nhi, thuê ở và làm xưởng mộc. Quá trình sử dụng nhà đất, bà NĐ_Lan được chính quyền chế độ cũ cấp bản kiểm kê thuế vụ.