109/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1430
- 33
Theo Đơn khởi kiện ngày 21/8/2009 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - bà NĐ_Phạm Thị Sang trình bày: Vào năm 2001 bà có bán cho ông BĐ_Sĩ 1.000m2 đất với số tiền 250.000.000 đồng. Sau đó ông BĐ_Sĩ giới thiệu ông Phan Văn Phương mua của bà thêm 1.000m2 đất cũng với số tiền 250.000.000 đồng. Phần đất của ông Phương mua nằm sát đường đi, lúc đó ông Phương có nói nếu ông có đi lối đi của bà thì ông đưa thêm 5.000.000 đồng, còn nếu không đi vào lối đi của bà thì ông không đưa số tiền trên. Một thời gian sau thì ông Phương bán phần đất trên lại cho ông BĐ_Sĩ, ông BĐ_Sĩ có xây nhà và trổ thêm cửa ra lối đi của bà thì bà không đồng ý nên vào năm 2003 bà có gửi đơn đến Ủy ban nhân dân xã TK nhờ giải quyết, ông BĐ_Sĩ trình bày chỉ mở lối thoát hiểm, không đi vào con đường này nên bà đã rút đơn. Sau đó phần đường đi chung này đã bị ông BĐ_Sĩ lấn chiếm và rào lại, vì vậy, bà tiếp tục làm đơn yêu cầu Ủy ban nhân dân xã TK giải quyết nhưng không thành. Nay bà khởi kiện với yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông BĐ_Trần Sĩ phải trả lại con đường đi công cộng có diện tích 153,2m2.
1634/2014/DS-PT : Tranh chấp quyền sử dụng đất Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1960
- 60
Nguyên đơn - NĐ_Nguyễn Thị Hồng Điệp trình bày: Nguyên lối đi chung có diện tích 59,6 m2 tại tổ 6, ấp 3, xã XTT, huyện HM đã hình thành từ trước năm 1975, lối đi này có chiều rộng khoảng 5 m, chiều dài khoảng 13 m, thuộc thửa đất 1026 do gia đình bà sử dụng đã được Ủy ban nhân dân huyện HM cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00861/QSDĐ ngày 10/11/1992 cho chồng bà là ông LQ_Phạm Văn Xoài. Đây là lối đi chung của nhiều hộ dân. Vào khoảng tháng 5 năm 2011 bà BĐ_Mai Thị Xê đã tự ý cho thợ xây móng, đổ đất, đá bít lối đi này trước nhà bà. Do đó bà khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Mai Thị Xê trả lại diện tích đất lấn chiếm để trả lại lối đi chung. Phần đất tranh chấp lối đi hiện nay qua đo đạc thực tế có diện tích 48,8 m2 thuộc phần đường, thửa phân chiết c, khu 2 (theo bảng chỉ dẫn diện tích tài liệu 2005), bản đồ hiện trạng vị trí số hợp đồng 96394/CN HM – CC ký đóng dấu ngày 19/11/2013 của Trung tâm đo đạc bản đồ - Sở Tài Nguyên Môi Trường Thành Phố HCM. Bà yêu cầu bà BĐ_Mai Thị Xê phải tháo dỡ móng gạch trả lại diện tích đất lấn chiếm để làm lối đi công cộng.
56/2016/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2854
- 80
Trong đơn khởi kiện, các biên bản trong quá trình giải quyết vụ án thì nguyên đơn – ông NĐ_Phạm Ngọc Dinh trình bày: Ông yêu cầu ông BĐ_Trịnh Văn Minh phải để ông sử dụng lối đi qua đất của ông BĐ_Minh để ra đường công cộng. Bởi vì, mẹ ruột của ông là bà Trịnh Thị Ghê có cho ông sử dụng đất tại thửa 1740, tờ bản đồ số 1, diện tích 2848m2, xác định tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Số: 00776/QSDĐ/Q12/1998 do Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố HCM cấp ngày 14/12/1998 cho bà Ghê. Bà Ghê đã ký Hợp đồng tặng cho phần đất này cho ông tại Phòng Công chứng Số 5, Thành phố HCM. Để ra đường công cộng, từ trước năm 1975, mẹ ông - bà Ghê đã sử dụng con đường mòn băng qua đất của ông BĐ_Minh. Theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở (Hồ sơ gố số: 15156 ngày 31/12/2003) do Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố HCM cấp cho ba mẹ ông Phạm Công Hiển – bà Trịnh Thị Ghê có thể hiện đường đi nội bộ vào gia đình ông.
390/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1605
- 36
Tranh chấp quyền sử dụng đất ở nhờ
Năm 1987, ông có nhận chuyển nhượng 380m2 đất của ông Trần Minh Thanh. Khi chuyển nhượng, đã có gia đình bà BĐ_Huỳnh Thị Kha đang ở nhờ trên đất của ông Thanh, phần đất ở nhờ là phần nhà sàn trên mương, ông vần đồng ý cho gia đình bà BĐ_Kha tiếp tục ở nhờ, thỏa thuận hết 3 năm thì gia đình bà BĐ_Kha phải chuyển đi nơi khác. Khi ngôi nhà sàn bằng cây tạp của gia đình bà BĐ_Kha bị hư, bà BĐ_Kha đã năn nỉ ông cho cất lại nhà và tiếp tục ở nhờ, ông đã đồng ý cho cất lại nhà trên diện tích đất 38m2. Năm 2001, gia đình bà BĐ_Kha san lấp mương thoát nước nhưng ông không đồng ý. Ngày 30/3/2001, bà BĐ_Kha đã làm tờ cam kết với nội dung ở nhờ trên đất của ông và khi muốn che chắn theo hiện trạng cũ phải được sự đồng ý của ông. Năm 2003, ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất nhận chuyển nhượng của ông Thanh, tổng diện tích là 325,7m2 gồm 2 thửa 1794 và 297, phần đất gia đình bà BĐ_Kha ở nhờ thuộc thửa 297. Ngày 21/7/2005, gia đình bà BĐ_Kha lại tiếp tục san lấp mặt băng và nâng cấp nhà ở dù không có sự đồng ý của ông. Nay ông yêu cầu gia đình bà BĐ_Kha phải tháo dỡ, di dời nhà đi nơi khác và trả lại phần đất đang ở nhờ.
63/2013/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 4046
- 185