TỔNG CỤC HẢI QUAN | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 5540/TCHQ-GSQL | Hà Nội, ngày 29 tháng 9 năm 1999 |
CÔNG VĂN
CỦA TỔNG CỤC HẢI QUAN SỐ 5540/TCHQ-GSQL NGÀY 29 THÁNG 9 NĂM 1999 VỀ VIỆC CHẤN CHỈNH VIỆC LÀM THỦ TỤC NHẬP KHẨU MẶT HÀNG GIẤY
Kính gửi: Cục Hải quan các tỉnh, thành phố.
Theo biên bản làm việc và báo cáo của Đoàn kiểm tra theo Quyết định số 516/QĐ-TCCB ngày 6/9/1999 của Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan, thời gian qua, Cục Hải quan một số tỉnh, thành phố đã chỉ đạo các đơn vị cơ sở làm thủ tục hải quan đối với mặt hàng giấy nhập khẩu theo Quyết định số 254/1998/QĐ-TTg ngày 31/12/1998 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách xuất nhập khẩu hàng hoá năm 1999 và Thông tư số 03/1999/TT-BTM ngày 15/01/1999 của Bộ Thương mại thể hiện thiếu chặt chẽ, chưa thống nhất. Cụ thể là:
- Các chứng từ thương mại (hợp đồng, invoice, Packing list, C/O) chưa thể hiện đầy đủ các tiêu chuẩn kỹ thuật của lô giấy nhập khẩu có liên quan (tên giấy, chủng loại, định lượng...) hoặc mã số hàng hoá Doanh nghiệp tự khai báo, không có trong danh mục HS và Biểu thuế nhập khẩu nhưng Hải quan vẫn chấp nhận đăng ký tờ khai.
- Phần ghi kết quả kiểm hoá trên tờ khai: Kiểm hoá viên không ghi rõ định lượng giấy là bao nhiêu g/m2 hoặc tự xác định định lượng giấy là trên 80g/m2, mà không nêu rõ căn cứ vào đâu để ghi kết quả kiểm hoá như vậy, nhưng vẫn giải quyết cho thông quan.
- Trên tờ khai hải quan ở phần khai báo Chủ hàng ghi là giấy láng; kết quả kiểm hoá và kết quả giám định xác định là giấy tráng dùng để in hoặc không dùng để viết; như vậy, hàng thực nhập không đúng với khai báo của Chủ hàng nhưng vẫn giải quyết cho thông quan.
- Có trường hợp Chủ hàng khai là giấy láng, kết quả kiểm hoá của Hải quan xác định là giấy láng hoặc giấy tráng, nhưng Hải quan không trưng cầu giám định hoặc có trường hợp có giám định nhưng kết quả giám định là giấy láng, cuối cùng Hải quan xếp vào mã số 48101190 với thuế suất 10% là chưa phù hợp;
Để khắc phục những thiếu sót trên đây nhằm đảm bảo việc làm thủ tục hải quan đối với các lô giấy nhập khẩu đúng quy định, Tổng Cục Hải quan yêu cầu Cục Hải quan các tỉnh, thành phố liên quan có biện pháp chấn chỉnh ngay những tồn tại nêu trên. như sau:
1. Khi tiếp nhận hồ sơ để làm thủ tục đăng ký tờ khai phải kiểm tra kỹ việc tự khai báo của Chủ hàng trên tờ khai (phải kiểm tra đầy đủ, chính xác tên hàng, mã thuế, số lượng, trọng lượng chủng loại, trị giá theo khai báo và các chứng từ liên quan); đồng thời cũng phải kiểm tra kỹ các chứng từ nộp kèm theo tờ khai hải quan để xác định tính hợp lệ của từng loại chứng từ. Sau khi xác định tự khai báo của Chủ hàng là chính xác và bộ hồ sơ hợp lệ mới đăng ký tờ khai.
Kiểm hoá viên phải căn cứ bộ hồ sơ và thực tế kiểm tra hàng hoá để xác định dứt khoát, rõ ràng giấy thuộc loại nào (giấy in, giấy viết, giấy đã tráng hay không tráng, định lượng bao nhiêu); Căn cứ các tiêu chí của Giấy theo các chứng từ thương mại hay thực tế kiểm tra nhãn mác ghi trên hàng hoá... để ghi kết quả kiểm hoá trên tờ khai. Việc ghi kết quả kiểm hoá phải ghi thật chi tiết, cụ thể, chuẩn xác, chặt chẽ nhằm thể hiện đúng thực trạng của hàng hoá.
2. Trong trường hợp phải yêu cầu giám định, Hải quan phải nêu rõ những tiêu chí cần phải qua cơ quan giám định để xác định và cơ quan giám định phải có kết luận thật cụ thiể, khoa học, khách quan về những tiêu chí mà cơ quan hải quan đã yêu cầu. Việc giám định hàng hoá và sử dụng kết quả giám định thực hiện theo đúng quy định tại các văn bản số 584/TCHQ-GSQL ngày 28/1/1999 và số 2519/TCHQ-GSQL ngày 11/5/1999 của Tổng Cục Hải quan.
3. Trong các bộ hồ sơ đối với các lô giấy nhập khẩu cần có lưu mẫu giấy, mẫu giấy phải có chữ ký của đại diện doanh nghiệp và công chức kiểm hoá hải quan để phục vụ cho việc giải quyết khiếu nại, tái giám định hoặc công tác kiểm tra sau thông quan.
4. Riêng đối với Cục Hải quan Hải phòng phải tổ chức phúc tập ngay toàn bộ 19 hồ sơ nhập khẩu giấy in, giấy viết có định lượng từ 50-80g/m2 để xem xét việc áp mã và tính thuế, nhằm xác định chính xác số thuế nhập khẩu phải nộp theo đúng quy định (theo như kiến nghị của Đoàn trong biên bản kiểm tra ngày 10/9/1999 tại Cục Hải quan TP Hải phòng) và báo cáo kết quả về Tổng Cục Hải quan (Cục GSQL và Cục KTTT) trước ngày 22/10/1999.
Tổng Cục Hải quan yêu cầu Cục Hải quan các tỉnh, thành phố liên quan quán triết thực hiện và báo cáo Tổng cục kết quả thực hiện cũng như những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện.
| Nguyễn Văn Cầm (Đã ký)
|