Luật Tố tụng hành chính số 64/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc Hội (Văn bản hết hiệu lực)
- Số hiệu văn bản: 64/2010/QH12
- Loại văn bản: Luật
- Cơ quan ban hành: Quốc hội
- Ngày ban hành: 24-11-2010
- Ngày có hiệu lực: 01-07-2011
- Ngày bị sửa đổi, bổ sung lần 1: 01-07-2014
- Ngày bị sửa đổi, bổ sung lần 2: 01-07-2014
- Ngày bị bãi bỏ, thay thế: 01-07-2016
- Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực
- Thời gian duy trì hiệu lực: 1827 ngày (5 năm 0 tháng 2 ngày)
- Ngày hết hiệu lực: 01-07-2016
- Ngôn ngữ:
- Định dạng văn bản hiện có:
Bản án sử dụng
- 01/2015/HC-ST (20-01-2015) Áp dụng: Khoản 1 Điều 28; Khoản 1 Điều 29; Điểm a Khoản 2 Điều 104; Điều 117; Điều 123; Khoản 1 Điều 132; Khoản 1 Điều 176
- 03/2015/HC-ST (29-01-2015) Áp dụng: Khoản 1 Điều 29; Khoản 1 Điều 103; Điểm a Khoản 2 Điều 104; Điều 131; Điều 123; Điều 176
- 08/2015/HC-ST (09-02-2015) Áp dụng: Khoản 1 Điều 29; khoản 1 Điều 103; Điểm a Khoản 2 Điều 104; Điều 123; Khoản 1 Đìều 132; Điều 176
- 15/2015/HC-ST (02-04-2015) Áp dụng: Khoản 7 Điều 3; Khoản 1 Điều 28; Khoản 1 Điều 29; Khoản 1 Điều 103; Điểm a Khoản 2 Điều 104; Khoản 1 Điều 131; Khoản 2 Điều 146; Điều 164; Điều 174; Điều 176
- 04/2015/HCST (23-04-2015) Áp dụng: Khoản 1 Điều 28; Khoản 1 Điều 29; Điều 104; Điều 117; Điều 123; Điều 130; Điều 131; Điều 160; Điều 164; Điều 174; Điều 176
- 21/2015/HC-ST (23-04-2015) Áp dụng: Khoản 7 Điều 3; Khoản 1 Điều 28; Khoản 1 Điều 29; Khoản 1 Điều 103; Điểm a Khoản 2 Điều 104; Khoản 1 Điều 131; Khoản 2 Điều 146; Điều 164; Điều 174;
- 01/2012/HC-GĐT (17-02-2012) Áp dụng: Khoản 3 Điều 225; Khoản 2 Điều 227
03/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 1449
- 43
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Tại đơn khởi kiện và được bổ sung tại phiên tòa, ông NĐ_Phạm Văn Tuấn và bà NĐ_Nguyễn Thị Ngọc trình bày: Vào năm 1995, chúng tôi được Ủy ban nhân dân thị xã CM (nay là thành phố CM) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phần đất tọa lạc tại ấp Tân Trung, xã HT, thành phố CM, có diện tích 2.740m2, nguồn gốc do mẹ tôi là bà Nguyễn Thị Hai cho tặng. Do hoàn cảnh khó khăn của gia đình, chúng tôi phải đi làm ăn xa không người quản lý đất, đến năm 2006 khi trở về, chúng tôi phát hiện Ủy ban nhân dân xã HT đã tự ý chiếm dụng và phân lô cho thuê. Chúng tôi đã gửi đơn yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết trả lại. Ông Trần Hòa Xuân là BĐ_chủ tịch Ủy ban nhân dân đã dựng lên việc tranh chấp đất này giữa ông và ông Phạm Văn No. Qua 2 cấp Tòa án xét xử, bằng Bản án dân sự phúc thẩm số 201/2006/PTDS ngày 18/05/2006 Tòa án nhân dân tỉnh CM đã tuyên xử buộc phải trả lại tôi hiện trạng phần đất đã nêu trên. Khi bản án có hiệu lực pháp luật tôi đã gửi đơn với đầy đủ thủ tục hợp lệ để yêu cầu thi hành án. Bằng Quyết định số 1784/QĐ-THA của cơ quan thi hành án dân sự thành phố CM tuy nhiên từ đó đến nay bản án vẫn không được thi hành do quyết định sai trái do ông Hứa Minh Hữu ký ban hành có nội dung thu hồi quyền sử dụng phần đất nêu trên của tôi mà không có lý do chính đáng.
01/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 1784
- 39
Khiếu kiện hành vi hành chính về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Ngày 09 tháng 03 năm 2011, bà NĐ_Nguyễn Thị Ngọc Linh khiếu nại việc BĐ_UBND huyện DK cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên và đã được BĐ_UBND huyện DK giải quyết bằng Công văn số 1654/UBND ngày 12/08/2011 trả lời cho bà NĐ_Linh với nội dung khiếu nại của bà có cơ sở để xem xét. Không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại của BĐ_UBND huyện DK, ngày 04/10/2011, bà NĐ_Linh có đơn khởi kiện yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01202/QSDĐ/SH-DK mang tên ông LQ_Nguyễn Ngọc Tùng, bà LQ_Nguyễn Thị Ngọc Châu.
03/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 1090
- 9
Tại đơn khởi kiện ngày 22/12/2011 cùng các văn bản kèm theo nguyên đơn là ông NĐ_LQ_Nguyễn Văn Đức trình bày: vào tháng 04/2010 ông mượn phần đất của ông LQ_Nguyễn Văn Đức thuộc thửa số 3, tờ bản đồ số 06, diện tích 497m2 mục đích sử dụng đất trồng cây lâu năm, địa chỉ tại ấp Cái Đôi Nhỏ, xã NVK, huyện PT, tỉnh CM để cất nhà ở. Nhưng BĐ_Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) huyện PT ra Quyết định hành chính số 65/QĐ-XPHC ngày 07 tháng 11 năm 2011 xử phạt ông số tiền 12.500.000 đồng, cho rằng ông có hành vi vi phạm nhà ở trong hành lang an toàn đường bộ. Ông không đồng ý với những quyết định xử phạt này vì những lý do sau: Ông quá nghèo không còn chỗ ở nào khác, Ủy ban không xác định cụ thể mốc lộ giới đường bộ nên không biết có vi phạm hành lang an toàn giao thông hay không, và thời gian cất nhà đã lâu nên đã hết thời hiệu xử phạt. Vì vậy, nay ông khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định hành chính số 65/QĐ-XPHC ngày 07/11/2011 của BĐ_Chủ tịch UBND huyện PT.
06/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 740
- 9
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc giao đất
Ông LQ_Tuấn trình bày: Vào khoảng năm 1954, ông Nguyễn Văn Báu khai phá phần đất 09 công chiều ngang, chiều dài tính từ sông Gành Hào đến Kinh Quản Húi và giao cho con ruột là bà Nguyễn Thị Tám quản lý, sử dụng. Đến năm 1968, địch đóng đồn nên tất cả phải đi di dân đi nơi khác sinh sống nên bỏ đất hoang. Đến năm 1975, gia đình ông trở về canh tác. Đến năm 1976, do đê bị vỡ nhà nước huy động nhân dân đắp đê ngăn mặn nên đất chia thành 02 phần trong đê và ngoài đê.
07/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 807
- 15
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc giải quyết tranh chấp đất đai
Ông NĐ_Hồ Văn Thắng trình bày: Phần đất hiện ông và chị LQ_Nguyễn Kiều Trang đang quản lý sử dụng có nguồn gốc chung của bà Phạm Thị Ba khai phá, sử dụng trước năm 1983. Năm 1983, bà Ba cắt một phần khoản 500m2 (tính số tròn – thuộc thửa số 181, tờ bản đồ số 5/1998, Phường X, thành phố CM) chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn Mai, ông Mai quản lý, sử dụng đến năm 1998 giao lại cho con là Nguyễn Văn Do. Năm 1998, ông Do chuyển nhượng lại cho chị LQ_Nguyễn Kiều Trang. Ngoài phần chuyển nhượng cho ông Mai, phần còn lại năm 1986 bà Ba chuyển nhượng cho ông Trần Văn Bê. Năm 1989, ông Bê chuyển nhượng lại cho ông Tăng Tùng Bàng, đến năm 1992 ông bàng chuyển nhượng lại cho bà Nghiêm Ánh Hồng. Ngày 04/08/1993 bà Nghiêm Ánh Hồng chuyển nhượng lại cho ông (NĐ_Hồ Văn Thắng).
01/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 1843
- 40
Khiếu kiện hành vi hành chính về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Ông Phạm Văn Trí đại diện cho ông NĐ_Võ Văn Tuấn và bà NĐ_Võ Thị Minh Trang trình bày: nguồn gốc đất diện tích khoảng 11.000m2 thửa số 930, 931, 932, 933 tờ bản đồ số 12 cùng tọa lạc tại ấp Phú Hòa, xã LĐ, thành phố TV, tỉnh TV là của ông bà, cha mẹ cho lại bà Võ Thị Bửu Ân và bà NĐ_Võ Thị Minh Trang canh tác từ sau giải phóng đến nay. Bà Võ Thị Bửu Ân do bị mất năng lực hành vi dân sự nên nhiều năm nay anh NĐ_Tuấn con bà Ân trực tiếp canh tác, cất nhà ở ổn định và đã đăng ký kê khai với Nhà nước thửa 930 diện tích 1.610m2, thửa số 933 diện tích 4.460m2. Phần còn lại do bà NĐ_Võ Thị Minh Trang khai thác canh tác, cất nhà, trồng cây trái, cây lâu năm, sử dụng ổn định trên 30 năm nay và có đăng ký kê khai với Nhà nước thửa 931, 932 diện tích 4.970m2
04/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 2063
- 41
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Ông NĐ_Lê Phước Hoàn Cầu và bà LQ_Lữ Thị Thanh Tú trình bày: Nguồn gốc đất của ông được cấp năm 2007 tổng cộng diện tích 2.191,9m2; đất thổ cư 200m2; cây lâu năm là 1991,90m2. Khi đăng ký kê khai thì đã có nhà của ông LQ_Quang và nhà của ông LQ_Tài ở nhờ trên đó. Trên hồ sơ kỹ thuật khu đất có thể hiện 02 căn nhà của ông cho ông LQ_Tài ở giữ và nhà của gia đình ông LQ_Quang ở do gia đình ông cho ở nhờ, nên ông không có yêu cầu ông LQ_Quang ký tên khi làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đề nghị Tòa án nhân dân thành phố LX hủy Quyết định số 258/QĐ-UBND ngày 06/07/2011 của BĐ_Ủy ban nhân dân thành phố LX và làm rõ kết luận của Thanh tra và bản đề nghị của phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố LX về nội dung quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông sai như thế nào để có lý do thu hồi.