cơ sở dữ liệu pháp lý

Thông tin văn bản
  • Nghị quyết số 74/2014/NQ-HĐND ngày 09/07/2014 của Hội đồng nhân dân tỉnh Kiên Giang Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ năm 2014 (Văn bản hết hiệu lực)

  • Số hiệu văn bản: 74/2014/NQ-HĐND
  • Loại văn bản: Nghị quyết
  • Cơ quan ban hành: Tỉnh Kiên Giang
  • Ngày ban hành: 09-07-2014
  • Ngày có hiệu lực: 19-07-2014
  • Ngày bị bãi bỏ, thay thế: 30-01-2015
  • Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực
  • Thời gian duy trì hiệu lực: 195 ngày ( 6 tháng 15 ngày)
  • Ngày hết hiệu lực: 30-01-2015
  • Ngôn ngữ:
  • Định dạng văn bản hiện có:
Caselaw Việt Nam: “Kể từ ngày 30-01-2015, Nghị quyết số 74/2014/NQ-HĐND ngày 09/07/2014 của Hội đồng nhân dân tỉnh Kiên Giang Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ năm 2014 (Văn bản hết hiệu lực) bị bãi bỏ, thay thế bởi Quyết định số 225/QĐ-UBND ngày 30/01/2015 Công bố Danh mục văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh Kiên Giang ban hành đã hết hiệu lực toàn bộ và một phần”. Xem thêm Lược đồ.

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH KIÊN GIANG
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 74/2014/NQ-HĐND

Kiên Giang, ngày 09 tháng 7 năm 2014

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ TIẾP TỤC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ NĂM 2014

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG
KHÓA VIII, KỲ HỌP THỨ 12

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003;

Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ngày 03 tháng 12 năm 2004;

Trên cơ sở xem xét các báo cáo của Ủy ban nhân dân, các cơ quan hữu quan, báo cáo thẩm tra của các ban Hội đồng nhân dân tỉnh; ý kiến của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh,

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Hội đồng nhân dân tỉnh tán thành báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ 6 tháng đầu năm và phương hướng, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2014 với các chỉ tiêu, giải pháp được nêu trong Báo cáo số 122/BC-UBND ngày 23 tháng 6 năm 2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh và các báo cáo của các cơ quan hữu quan, đồng thời nhấn mạnh một số nội dung như sau:

1. Tình hình 6 tháng đầu năm 2014

a) Kết quả đạt được

Triển khai thực hiện nhiệm vụ năm 2014 trong bối cảnh nền kinh tế của tỉnh có nhiều thuận lợi và thách thức đan xen. Trung ương có nhiều chủ trương, chính sách mới và tăng thêm nhiều nguồn lực, tạo thuận lợi hơn cho đầu tư phát triển. Song, thị trường tiếp tục cạnh tranh gay gắt, sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, cùng với nhiều yếu tố khách quan khác tác động đã làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân. Nhưng với tinh thần quyết tâm cao, các cấp, các ngành đã tích cực triển khai thực hiện nhiệm vụ, bám sát mục tiêu, giải pháp chỉ đạo của Chính phủ, Tỉnh ủy, nên giữ được ổn định tình hình, một số lĩnh vực tiếp tục phát triển. Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, đạt 8,92%, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Nhiều lĩnh vực đạt và vượt kế hoạch: Sản lượng lúa 2,488 triệu tấn, tăng 5,46% so với cùng kỳ; thu ngân sách đạt 2.605 tỷ đồng, tăng 14,3%; thương mại - dịch vụ tiếp tục phát triển, tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng 27,51%; huy động vốn đầu tư toàn xã hội 15.171 tỷ đồng, tăng 12,45%, nhiều công trình trọng điểm hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; những khó khăn trong sản xuất, kinh doanh và đầu tư từng bước được tháo gỡ. Văn hóa - xã hội có chuyển biến tiến bộ, chất lượng giáo dục được duy trì; các chính sách an sinh xã hội, chăm lo cho đối tượng chính sách, hộ nghèo được quan tâm thực hiện khá tốt. Quốc phòng - an ninh được tăng cường, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; tranh chấp, khiếu nại của công dân được quan tâm giải quyết. Hoạt động của các cấp, các ngành có tiến bộ, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh được nâng lên vị trí thứ 3 toàn quốc.

b) Về khó khăn, hạn chế

Tình hình chung vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Tăng trưởng kinh tế chưa đạt yêu cầu đề ra; một số chỉ tiêu kinh tế tuy tăng so cùng kỳ nhưng chưa đạt kế hoạch, nhất là kim ngạch xuất khẩu, sản lượng tôm nuôi,... Hoạt động của nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, giải ngân xây dựng cơ bản chậm, xây dựng nông thôn mới, giao thông nông thôn đạt thấp. Công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi và việc phân luồng học sinh sau trung học cơ sở còn nhiều khó khăn; tình trạng chi vượt trần, vượt quỹ bảo hiểm y tế khắc phục chậm, ảnh hưởng đến chăm sóc sức khỏe nhân dân; vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát tốt. Tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội, tranh chấp, khiếu kiện từng lúc, từng nơi còn diễn biến phức tạp; phạm pháp hình sự, tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông còn ở mức cao,...

Những hạn chế, yếu kém nêu trên có nguyên nhân khách quan là do tình hình kinh tế trong nước và quốc tế có nhiều khó khăn, thị trường tiêu thụ hàng hóa có nhiều biến động, nhưng nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu, đó là: Sự quản lý, điều hành của chính quyền các cấp, sự phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa chặt chẽ, hiệu quả; việc chỉ đạo thực hiện một số lĩnh vực, các nhiệm vụ trọng tâm chưa quyết liệt, thiếu chủ động xử lý những vấn đề khó khăn vướng mắc để thực hiện tốt nhiệm vụ chung của tỉnh.

2. Một số nhiệm vụ và giải pháp 6 tháng cuối năm 2014

Nhiệm vụ còn lại của 06 tháng cuối năm 2014 hết sức nặng nề, đòi hỏi Ủy ban nhân dân tỉnh, các cấp, các ngành, các địa phương trong tỉnh phải tiếp tục nỗ lực nhiều hơn nữa, phấn đấu đạt mức tăng trưởng kinh tế theo nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh đề ra cả năm là 10,5% trở lên. Tại kỳ họp này, Hội đồng nhân dân tỉnh đề ra một số nhiệm vụ và giải pháp sau đây:

a) Tập trung tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh, đầu tư trên một số lĩnh vực như: Xuất khẩu, phát triển nuôi trồng thủy sản, nhất là nuôi tôm công nghiệp vùng tứ giác Long Xuyên, công nghiệp chế biến, phát triển du lịch, thu hút đầu tư. Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh tế, hộ sản xuất, kinh doanh tiếp cận đất đai, nguồn vốn, thị trường để phát triển sản xuất, kinh doanh. Đẩy mạnh phát triển các lĩnh vực có điều kiện, tiềm năng như nông nghiệp, thương mại và dịch vụ, du lịch, đồng thời tăng cường quản lý thu ngân sách, quản lý nợ đọng thuế,..

Tăng cường công tác quản lý, thực hiện tốt quy định pháp luật về đất đai, đầu tư, xây dựng. Kịp thời sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách phù hợp tạo điều kiện huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Đẩy nhanh tiến độ đầu tư các công trình trọng điểm về giao thông, khu công nghiệp, công trình phúc lợi xã hội, công trình thủy lợi cho sản xuất, phòng chống biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Tăng cường huy động các nguồn vốn để đầu tư nâng cấp, cải tạo kết cấu hạ tầng một số công trình quan trọng, cấp bách; đầu tư xây dựng nông thôn mới và giao thông nông thôn. Đẩy nhanh công tác cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân theo Nghị quyết 30/2012/NQ-QH13 của Quốc hội Khóa XIII.

b) Huy động nguồn lực đầu tư, gắn với tăng cường quản lý để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong thực hiện các chỉ tiêu trên các lĩnh vực văn hóa, xã hội. Tiếp tục cụ thể hóa các chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo với mục tiêu nâng cao chất lượng ở các cấp học; xây dựng chính sách, sắp xếp, kiện toàn nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo; khắc phục nhanh tình trạng thiếu giáo viên, nhất là ở khối mầm non; đẩy mạnh tiến độ thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, nhất là đào tạo nghề theo địa chỉ sử dụng. Thực hiện có hiệu quả các chương trình, mục tiêu quốc gia về y tế, gắn với phòng chống các loại dịch bệnh; cải tiến thủ tục khám và điều trị ở các cơ sở y tế, khắc phục dần tình trạng quá tải bệnh viện. Thực hiện tốt các chính sách xã hội và an sinh xã hội, nhất là chính sách ưu đãi người có công, phong tặng, truy tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, các chính sách hỗ trợ và giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống gặp nhiều khó khăn. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là tuyên truyền về chủ quyền biển đảo.

c) Tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Kiểm soát chặt chẽ an ninh, chủ quyền biên giới, biển đảo. Đẩy nhanh việc triển khai các chương trình, đề án kinh tế quốc phòng khu vực biên giới. Tăng cường công tác phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội; các biện pháp quản lý nhằm kiềm chế, giảm dần tai nạn giao thông. Nâng cao trách nhiệm, chất lượng hoạt động và sự phối hợp hoạt động của các cơ quan nội chính, tư pháp.

d) Tăng cường chỉ đạo công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí. Các cấp, các ngành nâng cao hơn nữa trách nhiệm và chất lượng giải quyết các vụ việc, tăng cường đối thoại, tiếp công dân; giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo của công dân, nhất là các vụ bức xúc, đông người, kéo dài có liên quan đến đất đai, giải phóng mặt bằng,... Kịp thời ban hành các văn bản sửa đổi, bổ sung các quy trình về giải quyết khiếu nại, tố cáo, quy định về tiếp công dân và xử lý đơn thư,... cho phù hợp với các văn bản pháp luật mới ban hành.

đ) Tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh công tác cải cách hành chính; củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy chính quyền các cấp. Đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành, nêu cao tinh thần chủ động sáng tạo và trách nhiệm của người đứng đầu địa phương, đơn vị trong thực hiện các chương trình, kế hoạch; sâu sát tình hình, kịp thời giải quyết khó khăn, vướng mắc của cơ sở. Chấn chỉnh những yếu kém trong công tác quản lý nhà nước, nhất là trên lĩnh vực quản lý đất đai, đầu tư, xây dựng, nhằm hạn chế phát sinh khiếu nại, tố cáo. Nêu cao tinh thần trách nhiệm của sở, ngành, địa phương trong thực hiện công tác tham mưu, quản lý nhà nước trên các lĩnh vực.

Điều 2. Thời gian thực hiện

Nghị quyết này có hiệu lực sau 10 ngày kể từ ngày Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua.

Điều 3. Tổ chức thực hiện

Hội đồng nhân dân tỉnh giao Ủy ban nhân dân tỉnh triển khai, tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh.

Thường trực Hội đồng nhân dân, các ban của Hội đồng nhân dân và các đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh giám sát việc thực hiện Nghị quyết này.

Các cơ quan nhà nước phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh vận động nhân dân trong tỉnh tham gia thực hiện thắng lợi nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh.

Nghị quyết này đã được Hội đồng nhân dân tỉnh Kiên Giang Khóa VIII, Kỳ họp thứ 12 thông qua./.

 

 

CHỦ TỊCH




Nguyễn Thanh Sơn