cơ sở dữ liệu pháp lý

Thông tin văn bản
  • Chỉ thị số 18/2007/CT-UBND ngày 16/05/2007 Tăng cường quản lí sử dụng đất của các quy hoạch và dự án đầu tư do tỉnh Bình Dương ban hành (Văn bản hết hiệu lực)

  • Số hiệu văn bản: 18/2007/CT-UBND
  • Loại văn bản: Chỉ thị
  • Cơ quan ban hành: Tỉnh Bình Dương
  • Ngày ban hành: 16-05-2007
  • Ngày có hiệu lực: 26-05-2007
  • Ngày bị bãi bỏ, thay thế: 15-05-2017
  • Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực
  • Thời gian duy trì hiệu lực: 3642 ngày (9 năm 11 tháng 27 ngày)
  • Ngày hết hiệu lực: 15-05-2017
  • Ngôn ngữ:
  • Định dạng văn bản hiện có:
Caselaw Việt Nam: “Kể từ ngày 15-05-2017, Chỉ thị số 18/2007/CT-UBND ngày 16/05/2007 Tăng cường quản lí sử dụng đất của các quy hoạch và dự án đầu tư do tỉnh Bình Dương ban hành (Văn bản hết hiệu lực) bị bãi bỏ, thay thế bởi Quyết định 11/2017/QĐ-UBND bãi bỏ văn bản pháp luật của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương”. Xem thêm Lược đồ.

UỶ BAN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
---------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 18/2007/CT-UBND

Thủ Dầu Một, ngày 16 tháng 5 năm 2007

 

CHỈ THỊ

VỀ TĂNG CƯỜNG QUẢN LÍ SỬ DỤNG ĐẤT CỦA CÁC QUY HOẠCH VÀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ

Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành đã thực sự đi vào cuộc sống, được người dân đặc biệt quan tâm và bước đầu đạt được những kết quả tích cực. Quản lí nhà nước về đất đai thông qua công cụ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được tăng cường, góp phần tích cực vào việc phân bố và sử dụng ngày càng hợp lí, có hiệu quả nguồn lực đất đai. Đã cơ bản chấm dứt tình trạng giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất ngoài quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Hầu hết các huyện, thị trong tỉnh đã lập điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2006-2010).

Tuy nhiên, việc lập, thẩm định, xét duyệt, thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và các quy hoạch có sử dụng đất nhìn chung chưa tốt. Chất lượng quy hoạch chưa cao, nhiều trường hợp không sát thực tế, tính khả thi thấp. Tình trạng quy hoạch “treo”, dự án “treo”, nhiều vướng mắc trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng đang gây bức xúc trong dư luận xã hội, ảnh hưởng xấu đến ổn định sản xuất, đời sống của nhân dân ở nhiều nơi, làm chậm tiến độ triển khai nhiều dự án đầu tư và gây lãng phí đất đai. Hiện tượng vi phạm pháp luật về đất đai còn nhiều, nhất là trong việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

Thực hiện Chỉ thị 09/2007/CT-TTg ngày 06/4/2007 của Thủ tướng Chính phủ và để tăng cường quản lí sử dụng đất của các quy hoạch và dự án đầu tư trong thời gian tới; đồng thời khắc phục có hiệu quả những yếu kém nêu trên, Uỷ ban nhân dân tỉnh yêu cầu các sở, ngành, Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã căn cứ chức năng nhiệm vụ được giao tập trung thực hiện các nội dung sau:

1. Rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy định, hướng dẫn cụ thể về quản lí đất đai, về giá đất, về vận dụng thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, giải quyết việc làm và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.

2. Chỉ đạo việc lập, điều chỉnh, phê duyệt quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2006-2010) của cấp xã, bảo đảm hoàn thành trong quý II năm 2007. Khuyến khích sử dụng các đơn vị tư vấn có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao để nâng cao chất lượng, tính khả thi của phương án quy hoạch.

3. Rà soát, xử lí các quy hoạch có sử dụng đất theo quy định tại khoản 3, Điều 29 của Luật Đất đai năm 2003. Cần đánh giá từng quy hoạch đang bị coi là “treo” và xử lí (nếu thuộc thẩm quyền) hoặc đề xuất (nếu không thuộc thẩm quyền) thông qua Sở Tài nguyên và Môi trường tham mưu trình Uỷ ban nhân dân tỉnh xử lí theo các hướng sau:

- Những quy hoạch có thể thực hiện sớm thì tập trung nguồn lực để thực hiện ngay, không để kéo dài;

- Những quy hoạch xét cần nhưng trước mắt chưa có khả năng thực hiện được thì điều chỉnh mốc thời gian thực hiện quy hoạch;

- Những quy hoạch không hợp lí, không có tính khả thi thì phải quyết định hủy bỏ;

- Công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng việc điều chỉnh, hủy bỏ quy hoạch.

Việc xử lí theo các hướng nêu trên phải hoàn thành trước ngày 30 tháng 6 năm 2007 theo quyết định của Quốc hội tại Nghị quyết số 57/2006/NQ-QH11 ngày 29/6/2006 về kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2006 – 2010 của cả nước. Sau thời hạn đó, nếu sở ngành, địa phương nào còn tình trạng quy hoạch “treo” thì Thủ trưởng các sở ngành, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, thị xã đó phải chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh.

4. Bãi bỏ và chấm dứt ngay việc tùy tiện đặt ra các quy định trái pháp luật nhằm hạn chế quyền của người sử dụng đất trong vùng có quy hoạch. Khi công bố kế hoạch thu hồi đất có công trình, nhà ở để thực hiện quy hoạch phải đồng thời công bố kế hoạch tái định cư gắn với giải quyết việc làm, ổn định đời sống của người có đất bị thu hồi.

5. Rà soát, xử lí các dự án có sử dụng đất theo quy định tại khoản 12 Điều 38 của Luật Đất đai năm 2003. Đôn đốc việc sử dụng đất của các chủ đầu tư. Kiên quyết thu hồi đất các dự án mà chủ đầu tư không có khả năng thực hiện để giao hoặc cho thuê đối với tổ chức, cá nhân có năng lực và có nhu cầu về đất đai để thực hiện dự án đầu tư.

6. Thực hiện đúng chính sách bồi thường, hỗ trợ, giải quyết việc làm và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, bảo đảm ổn định đời sống của người có đất bị thu hồi. Phát huy vai trò của Tổ chức phát triển quỹ đất trong việc chủ động giải phóng mặt bằng sau khi quy hoạch được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt, tạo sẵn quỹ đất cho nhà đầu tư. Khắc phục có hiệu quả tình trạng ắch tắc, kéo dài việc giải phóng mặt bằng.

7. Chấn chỉnh công tác giao đất, cho thuê đất, đặc biệt phải xem xét kỹ nhu cầu sử dụng đất, hiệu quả và tính khả thi của dự án, khả năng thực sự của nhà đầu tư trước khi quyết định giao đất, cho thuê đất.

8. Sở Tài nguyên và Môi trường, Uỷ ban nhân dân các huyện, thị thường xuyên kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất; việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để ngăn chặn kịp thời các vi phạm.

Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra việc thực hiện và định kỳ báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh tình hình thực hiện Chỉ thị này./.

 

 

TM. UỶ BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH




Trần Thị Kim Vân