cơ sở dữ liệu pháp lý

Thông tin văn bản
  • Thông tư số 36-TT/PC ngày 16/09/1986 Hướng dẫn công tác thanh tra chấp hành chế độ hợp đồng kinh tế do Trọng tài kinh tế Nhà nước ban hành (Văn bản hết hiệu lực)

  • Số hiệu văn bản: 36-TT/PC
  • Loại văn bản: Thông tư
  • Cơ quan ban hành: Trọng tài kinh tế Nhà nước
  • Ngày ban hành: 16-09-1986
  • Ngày có hiệu lực: 16-09-1986
  • Ngày bị bãi bỏ, thay thế: 31-12-1987
  • Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực
  • Thời gian duy trì hiệu lực: 471 ngày (1 năm 3 tháng 16 ngày)
  • Ngày hết hiệu lực: 31-12-1987
  • Ngôn ngữ:
  • Định dạng văn bản hiện có:
Caselaw Việt Nam: “Kể từ ngày 31-12-1987, Thông tư số 36-TT/PC ngày 16/09/1986 Hướng dẫn công tác thanh tra chấp hành chế độ hợp đồng kinh tế do Trọng tài kinh tế Nhà nước ban hành (Văn bản hết hiệu lực) bị bãi bỏ, thay thế bởi Thông tư số 104-TT/PC ngày 31/12/1987 Hướng dẫn về Hợp đồng kinh tế và Trọng tài kinh tế nhằm thi hành QĐ 217-HĐBT-1987 do Trọng tài kinh tế Nhà nước ban hành (Văn bản hết hiệu lực)”. Xem thêm Lược đồ.

TRỌNG TÀI KINH TẾ NHÀ NƯỚC
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 36-TT/PC

Hà Nội, ngày 16 tháng 9 năm 1986

 

THÔNG TƯ

CỦA TRỌNG TÀI KINH TẾ NHÀ NƯỚC SỐ 36-TT/PC NGÀY 16-9-1986 HƯỚNG DẪN VỀ CÔNG TÁC THANH TRA CHẤP HÀNH CHẾ ĐỘ HỢP ĐỒNG KINH TẾ

Để thực hiện quy định tạm thời về quyền tự chủ của các đơn vị kinh tế cơ sở trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo Quyết định số 76-HĐBT ngày 26-6-1986 của Hội đồng Bộ trưởng, Trọng tài kinh tế Nhà nước hướng dẫn và quy định cụ thể về công tác thanh tra chấp hành chế độ hợp đồng kinh tế (dưới đây gọi tắt là thanh tra hợp đồng kinh tế) như sau:

I- NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

1. Mục đích, yêu cầu thanh tra hợp đồng kinh tế của Trọng tài kinh tế.

Hợp đồng kinh tế có vị trí quan trọng trong việc bảo đảm quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở. Nó đã được quy định thành chế độ bắt buộc: "Mọi hoạt kinh tế có liên quan giữa các đơn vị kinh tế với nhau ... đều phải ký kết hợp đồng" (điều 1 quy định tạm thời), và "việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế phải theo đúng các quy định của pháp luật" (điều 2 quy định tạm thời).

Để bảo đảm chấp hành nghiêm chỉnh chế độ hợp đồng kinh tế, đòi hỏi một mặt các cơ quan chủ quản phải làm tốt công tác hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị cơ sở trực thuộc trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng, mặt khác các cơ quan trọng tài kinh tế phải tăng cường công tác "thanh tra, kiểm tra hợp đồng kinh tế ở các đơn vị, tổ chức và hộ kinh doanh tư nhân" (điều 14 quy định tạm thời) theo đúng chức năng Nhà nước quy định.

Trọng tài kinh tế tiến hành thanh tra hợp đồng kinh tế ở các đơn vị cơ sở với những yêu cầu sau đây:

a) Phát hiện và uốn nắn kịp thời những sai sót, góp phần tháo gỡ những vướng mắc khó khăn trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế, tích cực phòng ngừa vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế và các chính sách, chế độ quản lý kinh tế có liên quan ở các đơn vị kinh tế cơ sở.

b) Khi có dấu hiệu vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế, đi sâu tìm nguyên nhân và đề ra biện pháp xử lý cần thiết, kịp thời ngăn ngừa những biểu hiện tiêu cực trong các hoạt động kinh tế, tăng cường kỷ luật Nhà nước, tăng cường quản lý kinh tế, bảo đảm chế độ hợp đồng kinh tế và các chính sách, chế độ quản lý kinh tế có liên quan của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh.

2. Đối tượng thanh tra hợp đồng kinh tế của Trọng tài kinh tế.

Căn cứ vào điều 1 và điều 14 của bản quy định tạm thời, thì đối tượng thanh tra hợp đồng kinh tế của Trọng tài kinh tế bao gồm các đơn vị kinh tế cơ sở (xí nghiệp, xí nghiệp liên hợp, liên hiệp các xí nghiệp, công ty, tổng công ty của quốc doanh, xí nghiệp công tư hợp doanh, hợp tác xã các loại và các tổ chức kinh tế tập thể khác), các cơ quan Nhà nước; các đơn vị vũ trang; các đoàn thể và tổ chức xã hội; các hộ tư nhân được phép kinh doanh và có tài khoản ở Ngân hàng có quan hệ hợp đồng với Nhà nước (sau đây gọi chung là các đơn vị kinh tế cơ sở).

Công tác thanh tra hợp đồng kinh tế nói chung được tiến hành ở các đơn vị có đủ tư cách pháp nhân; tuy nhiên đối với các đơn vị hạch toán kinh tế nội bộ - tư cách pháp nhân chưa đầy đủ như các xí nghiệp trong các xí nghiệp liên hợp, các chi nhánh trực thuộc tổng công ty..., Trọng tài kinh tế vẫn có thể trực tiếp tiến hành thanh tra, nhưng phải coi đơn vị kinh tế chủ quản (xí nghiệp liên hợp, tổng công ty.. . ) là đối tượng thanh tra. Riêng đối với hợp tác xã các loại, các tổ chức kinh tế tập thể khác và các hộ tư nhân thì việc thanh tra chủ yếu tập trung vào những hợp đồng kinh tế có liên quan đến việc thực hiện kế hoạch Nhà nước.

3. Nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hợp đồng kinh tế.

a) Nhiệm vụ thanh tra hợp đồng kinh tế.

Nhiệm vụ thanh tra hợp đồng kinh tế của Trọng tài kinh tế đối với các đơn vị kinh tế cơ sở bao gồm:

- Thanh tra việc chấp hành nghĩa vụ ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế theo đúng quy định của chế độ hợp đồng kinh tế như không được trì hoãn, từ chối ký kết hợp đồng kinh tế, bảo đảm phục vụ cho việc xây dựng và thực hiện kế hoạch Nhà nước; hợp đồng ký kết phải hợp pháp; phải thực hiện nghiêm chỉnh hợp đồng đã ký.

- Thanh tra việc chấp hành các chính sách, chế độ quản lý kinh tế có liên quan đến nội dung của từng bản hợp đồng kinh tế như về số lượng phải đúng với chỉ tiêu kế hoạch, đúng với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao; chất lượng ghi trong hợp đồng phải đúng với tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật hoặc quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; giá cả ghi trong hợp đồng phải đúng với giá quy định hoặc chính sách, nguyên tắc giá của Nhà nước; địa điểm giao nhận phải đúng với quy định của Nhà nước, thời gian, tiến độ giao nhận phải quy định rõ ràng; trách nhiệm của các bên chủ thể trong việc thực hiện hợp đồng phải được xác định rõ. Tóm lại, các điều khoản ghi trong mỗi bản hợp đồng và việc chấp hành các điều khoản đó phải bảo đảm phù hợp với chính sách, chế độ của Nhà nước, bảo đảm bình đẳng về nghĩa vụ và ràng buộc về trách nhiệm vật chất của các bên ký kết hợp đồng.

- Qua thanh tra hợp đồng kinh tế, góp phần thiết thực giúp các đơn vị kinh tế cơ sở quán triệt đầy đủ các quy định về hợp đồng kinh tế và các chính sách, chế độ quản lý kinh tế có liên quan để chấp hành nghiêm chỉnh.

b) Quyền hạn của Trọng tài kinh tế khi tiến hành thanh tra hợp đồng kinh tế.

Căn cứ vào những quy định hiện hành của Nhà nước, khi tiến hành thanh tra hợp đồng kinh tế, các cơ quan Trọng tài kinh tế có những quyền hạn sau đây:

- Yêu cầu đơn vị kinh tế là đối tượng thanh tra, các đơn vị kinh tế và các cơ quan chuyên môn liên quan cung cấp các tài liệu, số liệu cần thiết phục vụ cho việc thanh tra hợp đồng kinh tế.

- Yêu cầu đơn vị kinh tế là đối tượng thanh tra và các đơn vị kinh tế liên quan có biện pháp khắc phục những sai sót, vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế. Kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền giải quyết những vướng mắc, khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị kinh tế là đối tượng thanh tra ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế.

- Đưa ra cơ quan Trọng tài kinh tế có thẩm quyền xét xử đối với đơn vị kinh tế là đối tượng thanh tra hoặc các đơn vị kinh tế liên quan vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế đã làm ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện kế hoạch Nhà nước hoặc làm thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa.

- Kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền khen thưởng những cá nhân có thành tích đóng góp vào việc thanh tra hợp đồng hoặc vào việc thực hiện tốt chế độ hợp đồng kinh tế, thi hành kỷ luật hành chính đối với những cá nhân cản trở, trì hoãn công việc thanh tra hợp đồng kinh tế hoặc có nhiều sai phạm trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế.

- Kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung những quy định về hợp đồng kinh tế và các chính sách, chế độ quản lý kinh tế có liên quan, nếu xét thấy cần thiết.

4. Về tình hình thanh tra hợp đồng kinh tế.

Để bảo đảm công tác thanh tra hợp đồng kinh tế đạt hiệu quả cao, vừa phục vụ tốt nhiệm vụ quản lý chế độ hợp đồng kinh tế, vừa phục vụ tốt công tác xét xử các tranh chấp và vi phạm hợp đồng kinh tế, công tác thanh tra hợp đồng kinh tế của các cơ quan Trọng tài kinh tế được tiến hành dưới hai hình thức.

a) Kiểm tra hợp đồng kinh tế là hình thức tiến hành thường xuyên, phục vụ cho việc nắm chắc tình hình, phát hiện và uốn nắn kịp thời những sai sót, góp phần tháo gỡ những vướng mắc khó khăn trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế nhằm tích cực phòng ngừa vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế và các chính sách, chế độ quản lý kinh tế có liên quan ở các đơn vị kinh tế cơ sở, đáp ứng yêu cầu a, điểm 1.

b) Thanh tra hợp đồng kinh tế là hình thức được tiến hành khi đã có dấu hiệu vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế, đi sâu tìm rõ nguyên nhân để có các biện pháp xử lý đúng đắn, nhằm kịp thời ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực trong hoạt động kinh tế, tăng cường kỷ luật Nhà nước, tăng cường quản lý kinh tế, đáp ứng yêu cầu b, điểm 1.

Việc áp dụng hình thức kiểm tra hay thanh tra phải được xác định trong kế hoạch thanh tra hợp đồng kinh tế hàng năm, hàng quý của Trọng tài kinh tế các cấp, các ngành quy định ở điểm 1, phần III dưới đây.

II- THẨM QUYỀN THANH TRA HỢP ĐỒNG KINH TẾ CỦA TRỌNG TÀI KINH TẾ CÁC CẤP, CÁC NGÀNH

Căn cứ vào quy định về tổ chức và hoạt động của Trọng tài kinh tế các cấp, các ngành và để phù hợp với nguyên tắc quản lý kinh tế chung, kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ, thẩm quyền thanh tra hợp đồng kinh tế của Trọng tài kinh tế các cấp, các ngành được quy định cụ thể như sau:

1. Trọng tài kinh tế Nhà nước tiến hành thanh tra hợp đồng kinh tế ở tất cả các đơn vị kinh tế cơ sở của nền kinh tế quốc dân thuộc các cấp, các ngành, không phân biệt đơn vị kinh tế cơ sở thuộc quyền quản lý của các ngành Trung ương, các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương, các huyện, quận, thị xã, bao gồm các thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể và hộ kinh doanh tư nhân, khi xét thấy cần thiết.

2. Trọng tài kinh tế tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Trọng tài kinh tế tỉnh) tiến hành thanh tra hợp đồng kinh tế ở tất cả các đơn vị kinh tế cơ sở nằm trên địa bàn lãnh thổ tỉnh, thành phố, đặc khu, bao gồm các đơn vị kinh tế cơ sở trực thuộc tỉnh, trực thuộc huyện, các đơn vị kinh tế tập thể và hộ kinh doanh tư nhân ở trong toàn tỉnh, thành phố, đặc khu và cả các đơn vị kinh tế cơ sở thuộc các ngành Trung ương đóng tại địa phương theo thẩm quyền quản lý Nhà nước trên vùng lãnh thổ.

3. Trọng tài kinh tế huyện, quận và cấp tương đương (sau đây gọi chung là Trọng tài kinh tế huyện) tiến hành thanh tra hợp đồng kinh tế ở tất cả các đơn vị kinh tế cơ sở thuộc quyền quản lý của cấp huyện, quận và cấp tương đương, bao gồm các đơn vị kinh tế cơ sở trực thuộc huyện, các đơn vị kinh tế tập thể và hộ kinh doanh tư nhân ở trong toàn huyện, quận và cấp tương đương.

4. Trọng tài kinh tế Bộ, Tổng cục tiến hành thanh tra hợp đồng kinh tế ở các đơn vị kinh tế cở sở trực thuộc Bộ, Tổng cục.

Trọng tài viên là người phụ trách cuộc thanh tra hợp đồng kinh tế. Trong những trường hợp cần thiết, Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Trọng tài kinh tế các cấp, các ngành trực tiếp hoặc cử nhiều trọng tài viên cùng tiến hành một cuộc thanh tra hợp đồng kinh tế. Tham gia cuộc thanh tra hợp đồng kinh tế còn có một số cán bộ pháp lý giúp việc và tuỳ theo tính chất, yêu cầu của cuộc thanh tra có thể mời đại diện của ngành liên quan như kế hoạch, vật giá, thanh tra chuyên trách... cùng tham gia. Những cán bộ tham gia cuộc thanh tra hợp đồng kinh tế phải là những người có trình độ và năng lực chuyên môn, nắm được và giải quyết được những vấn đề nghiệp vụ chuyên môn và phải chịu sự chỉ đạo của người phụ trách cuộc thanh tra.

III- NGUYÊN TẮC, THỦ TỤC THANH TRA HỢP ĐỒNG KINH TẾ

1. Về nguyên tắc thanh tra hợp đồng kinh tế.

Công tác thanh tra hợp đồng kinh tế phải được tiến hành một cách thường xuyên và có kế hoạch. Hàng năm, hàng quý các cơ quan Trọng tài kinh tế phải căn cứ vào nhiệm vụ kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ kế hoạch, căn cứ vào tình hình chấp hành chế độ hợp đồng kinh tế ở các đơn vị kinh tế cơ sở trong địa phương, trong ngành để đề ra kế hoạch thanh tra hợp đồng kinh tế.

Kế hoạch thanh tra hợp đồng kinh tế phải toàn diện bảo đảm công tác thanh tra được tiến hành rộng khắp trên các lĩnh vực, các thành phần kinh tế, đồng thời phải có trọng tâm, trọng điểm nhằm vào những đơn vị kinh tế trọng yếu của nền kinh tế quốc dân, của ngành hoặc của địa phương, vào những hợp đồng kinh tế chủ yếu có vị trí quan trọng liên quan tới việc hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch của các đơn vị kinh tế cơ sở, mỗi thời gian còn phải chú ý vào chủ đề nội dung nhất định, như cuối năm và đầu năm cần tập trung thanh tra vào việc thanh lý hợp đồng cũ và ký kết hợp đồng mới theo chỉ tiêu pháp lệnh, giữa năm tập trung vào việc thực hiện hợp đồng đã ký.

Chủ tịch Trọng tài kinh tế các cấp, các ngành xét duyệt kế hoạch thanh tra của cấp mình, ngành mình đối với các đơn vị kinh tế cơ sở theo thẩm quyền quy định ở phần II nói trên.

Khi tiến hành thanh tra hợp đồng kinh tế ở các đơn vị kinh tế cơ sở, cơ quan Trọng tài kinh tế phải thông báo cho đơn vị kinh tế là đối tượng thanh tra biết trước ít nhất là 5 ngày trước ngày tiến hành thanh tra, để sắp xếp công việc và chuẩn bị các điều kiện cần thiết phục vụ cuộc thanh tra hợp đồng kinh tế.

Riêng việc thanh tra hợp đồng kinh tế của Trọng tài kinh tế tỉnh đối với các đơn vị kinh tế cơ sở của các ngành Trung ương đóng tại địa phương cần nhằm chủ yếu vào những hợp đồng kinh tế có quan hệ với các đơn vị kinh tế cơ sở của địa phương; khi tiến hành thanh tra cần thông báo cho Trọng tài kinh tế Bộ, Tổng cục chủ quản biết, để có sự phối hợp nếu cần.

2. Về thủ tục thanh tra hợp đồng kinh tế.

a) Khi tiến hành thanh tra hợp đồng kinh tế, người phụ trách cuộc thanh tra phải làm việc trực tiếp với thủ trưởng đơn vị kinh tế là đối tượng thanh tra, trường hợp thủ trưởng đi vắng, người thay mặt phải là cấp phó hoặc người được thủ trưởng uỷ quyền (gọi chung là thủ trưởng).

Căn cứ yêu cầu của cuộc thanh tra, người phụ trách cuộc thanh tra yêu cầu thủ trưởng đơn vị kinh tế là đối tượng thanh tra báo cáo về tình hình chấp hành chế độ hợp đồng kinh tế ở đơn vị như ưu điểm, khuyết điểm, vướng mắc khó khăn trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế cùng những kiến nghị cần giải quyết, và cung cấp các bản hợp đồng kinh tế đã ký và các tài liệu, số liệu cần thiết có liên quan phục vụ cho việc thanh tra hợp đồng kinh tế ở đơn vị.

Trên cơ sở báo cáo của thủ trưởng đơn vị, các bản hợp đồng kinh tế đã ký và các tài liệu, số liệu được cung cấp, người phụ trách cuộc thanh tra cần đi sâu nghiên cứu từng vấn đề hoặc từng bản hợp đồng tuỳ theo yêu cầu của cuộc thanh tra, đối chiếu với nhiệm vụ và chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao, các chính sách, chế độ quản lý kinh tế hiện hành của Nhà nước. Nếu có những sai sót như chậm ký kết hợp đồng theo chỉ tiêu pháp lệnh, ký hợp đồng không đúng thủ tục quy định, hình thức nội dung hợp đồng sơ sài, các điều khoản ghi trong hợp đồng thiếu cụ thể, trách nhiệm các bên chủ thể hợp đồng không rõ ràng... thì cần uốn nắn, hướng dẫn cho đơn vị sửa chữa kịp thời; nếu có dấu hiệu vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế như cố tình từ chối, trì hoãn việc ký kết hợp đồng, hợp đồng ký kết không đúng với năng lực pháp lý, các điều khoản ghi trong hợp đồng trái với các quy định trong các chính sách, chế độ quản lý kinh tế hiện hành của Nhà nước, không thực hiện nghiêm chỉnh hợp đồng đã ký... thì phải tìm rõ nguyên nhân rút ra kết luận, có các biện pháp giải quyết đúng đắn, bảo đảm chế độ hợp đồng kinh tế được chấp hành nghiêm chỉnh.

b) Trong quá trình tiến hành thanh tra hợp đồng kinh tế, người phụ trách thanh tra được sử dụng các quyền hạn quy định ở tiết b, điểm 3, phần I đối với đơn vị kinh tế là đối tượng thanh tra, các đơn vị kinh tế liên quan (bao gồm các đơn vị kinh tế chủ quản như liên hiệp các xí nghiệp, tổng công ty...) trường hợp cần có những yêu cầu, kiến nghị với các cơ quan chuyên môn, cơ quan quản lý Nhà nước và chính quyền các cấp, trọng tài viên phải báo cáo với Chủ tịch Trọng tài kinh tế cấp mình xem xét và ra văn bản chính thức; đồng thời phải chấp hành nghiêm chỉnh chế độ bảo mật về kinh tế, không để tiết lộ bí mật về kinh tế mà khi thi hành nhiệm vụ biết được, phải tuân thủ pháp luật Nhà nước, mọi việc giải quyết phải trên cơ sở các chính sách, chế độ hiện hành, bảo đảm công minh và trong phạm vi lĩnh vực hợp đồng kinh tế và trọng tài kinh tế theo chế độ quy định của Nhà nước, nếu thấy lĩnh vực khác có dấu hiệu vi phạm phải kịp thời chuyển giao cho người đại diện các ngành hữu quan cùng tham gia thanh tra (nếu có) hoặc báo cáo với Chủ tịch Trọng tài kinh tế cấp mình để thông báo cho cơ quan hữu quan giải quyết.

c) Kết thúc cuộc thanh tra (bao gồm cả 2 hình thức là kiểm tra; thanh tra) đều phải lập biên bản theo mẫu thống nhất. Biên bản thanh tra (hoặc kiểm tra) hợp đồng kinh tế là tài liệu có giá trị pháp lý, cho nên nội dung ghi trong biên bản phải rõ ràng nhất là những kết luận về ưu điểm, sai sót, vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế; việc giải quyết, uốn nắn những sai sót vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế và các chính sách, chế độ quản lý kinh tế có liên quan đối với đơn vị kinh tế là đối tượng thanh tra như có những sai sót nào phải sửa chữa ngay, sai sót nào phải sửa chữa trong một thời gian nhất định, có những vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế và các chính sách, chế độ quản lý kinh tế có liên quan thì vi phạm nào bắt buộc phải khắc phục ngay, vi phạm nào phải được khắc phục trong một thời gian nhất định, vi phạm nào phải đưa ra cơ quan Trọng tài kinh tế có thẩm quyền xét xử; những kiến nghị, đề nghị với cơ quan quản lý Nhà nước hữu quan.

Trường hợp đơn vị kinh tế là đối tượng thanh tra không nhất trí với điểm nào ghi trong biên bản thì được ghi ý kiến của mình cùng với các tài liệu chứng minh, giải thích cần thiết kèm theo và báo cáo với cơ quan có thẩm quyền giải quyết, nhưng trong khi chờ giải quyết vẫn phải chấp hành đầy đủ, nghiêm túc những kết luận và các biện pháp giải quyết của người phụ trách thanh tra hợp đồng kinh tế ghi trong biên bản.

Biên bản phải có chữ ký của người phụ trách cuộc thanh tra, của thủ trưởng đơn vị kinh tế là đối tượng thanh tra. d) Sau cuộc thanh tra, người phụ trách cuộc thanh tra phải báo cáo Chủ tịch Trọng tài kinh tế cấp mình về kết quả thanh tra kèm theo biên bản thanh tra để giám sát và nếu xét thấy cần thiết có văn bản chính thức gửi các cơ quan quản lý Nhà nước và chính quyền các cấp giải quyết kịp thời những yêu cầu kiến nghị ghi trong biên bản; tiếp tục theo dõi, yêu cầu các đơn vị kinh tế là đối tượng thanh tra và các đơn vị kinh tế có liên quan báo cáo kết quả khắc phục những sai sót vi phạm theo những biện pháp và thời hạn do mình đề ra (nếu có) , quá thời hạn quy định các đơn vị kinh tế không báo cáo thì phải tiến hành phúc tra và nếu những sai sót, vi phạm không được khắc phục thì coi như cố tình vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế, phải đưa ra cơ quan trọng tài kinh tế có thẩm quyền xét xử.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ban hành, thay thế Thông tư số 306-TTHĐ ngày 3-10-1979 của Chủ tịch Trọng tài kinh tế Nhà nước hướng dẫn nghiệp vụ công tác thanh tra hợp đồng kinh tế.

Đề nghị các đồng chí Bộ trưởng các Bộ, Chủ nhiệm các Uỷ ban Nhà nước, Thủ trưởng các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương phổ biến rộng rãi Thông tư này đến các cơ quan, đơn vị kinh tế cơ sở trực thuộc để nắm vững và thi hành đầy đủ.

Yêu cầu các đồng chí Chủ tịch Trọng tài kinh tế các Bộ, Tổng cục, các tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương nghiên cứu kỹ Thông tư này để quán triệt và thi hành.

Trong khi thực hiện, nếu gặp vướng mắc, đề nghị các ngành, các cấp phản ánh về Trọng tài kinh tế Nhà nước để nghiên cứu giải quyết.

 

Tô Duy

(Đã ký)