Thông tư liên tịch số 195-LB ngày 13/11/1992 Về hướng dẫn đăng ký hoạt động của các tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ do Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường-Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ ban hành
- Số hiệu văn bản: 195-LB
- Loại văn bản: Thông tư liên tịch
- Cơ quan ban hành: Ban Tổ chức-Cán bộ Chính phủ, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường
- Ngày ban hành: 13-11-1992
- Ngày có hiệu lực: 28-11-1992
- Tình trạng hiệu lực: Đang có hiệu lực
- Thời gian duy trì hiệu lực: 11683 ngày (32 năm 0 tháng 3 ngày)
- Ngôn ngữ:
- Định dạng văn bản hiện có:
BAN TỔ CHỨC-CÁN BỘ CHÍNH PHỦ-BỘ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 195-LB | Hà Nội , ngày 13 tháng 11 năm 1992 |
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
CỦA BỘ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG - BAN TỔ CHỨC - CÁN BỘ CHÍNH PHỦ SỐ 195-LB NGÀY 13 THÁNG 11 NĂM 1992 HƯỚNG DẪN ĐĂNG KÝ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ
Ngày 28 tháng 1 năm 1992, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 35-HĐBT về công tác quản lý khoa học và công nghệ. Nghị định khẳng định quyền chủ động của tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân thuộc mọi thành phần kinh tế trong việc thành lập các tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (sau đây gọi tắt là tổ chức khoa học và công nghệ).
Theo tinh thần Điều 15 của Nghị định, các tổ chức này phải tiến hành đăng ký hoạt động tại Uỷ ban Khoa học Nhà nước (nay gọi là Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường) và tại Uỷ ban (Ban) Khoa học tỉnh hoặc thành phố trực thuộc Trung ương.
Thông tư Liên bộ này hướng dẫn cụ thể việc đăng ký hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ như sau:
I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Đối tượng áp dụng của Thông tư này là các tổ chức khoa học và công nghệ của các cơ quan Nhà nước, các đơn vị vũ trang, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân.
Tổ chức khoa học và công nghệ là các tổ chức tiến hành các hoạt động.
- Nghiên cứu, thực nghiệm, triển khai áp dụng các công nghệ mới, các kỹ thuật mới, các sản phẩm mới và biện pháp tổ chức mới;
- Sản xuất đơn chiếc hoặc số lượng nhỏ các sản phẩm mới với trình độ công nghệ cao mà các cơ sở sản xuất chưa có điều kiện thực hiện.
Hoạt động sản xuất trong các tổ chức khoa học và công nghệ (trừ các tổ chức chuyên sản xuất thử nghiệm độc lập) phải bắt nguồn từ kết quả nghiên cứu của bản thân tổ chức khoa học và công nghệ.
- Thông tin - tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao nghiệp vụ về khoa học, công nghệ, tổ chức, quản lý.
Các tổ chức khoa học và công nghệ có thể hoạt động với các hình thức sau: Viện, trung tâm, phòng thí nghiệm, trạm trại nghiên cứu thực nghiệm quy định tại phụ lục IV.
Các tổ chức khoa học và công nghệ có hoạt động liên quan tới các thí nghiệm trên cơ thể người và động vật; các chất độc hại gây ô nhiễm môi trường; an ninh, quốc phòng v.v... thì nhất thiết phải được phép của cơ quan quản lý Nhà nước về các lĩnh vực đó bằng văn bản và phải xuất trình các văn bản ấy khi đăng ký hoạt động.
Các đơn vị kinh doanh thuộc các tổ chức khoa học và công nghệ liên doanh với nước ngoài được điều chỉnh theo Luật đầu tư nước ngoài và các văn bản hướng dẫn có liên quan của Uỷ ban Hợp tác về đầu tư nước ngoài; các tổ chức khoa học và công nghệ thành lập theo sự hợp tác nghiên cứu song phương hoặc đa phương giữa các tổ chức khoa học và công nghệ của Việt Nam với các tổ chức nước ngoài (kể cả cá nhân với người nước ngoài) phải đăng ký hoạt động theo quy định tại Điều 15 Nghị định 35-HĐBT ngày 28-1-1992 (nay là Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam)
Các trường, lớp đào tạo thuộc các tổ chức khoa học và công nghệ thì thực hiện các quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Các đơn vị chuyên sản xuất thương phẩm và dịch vụ, kinh doanh trong các tổ chức khoa học và công nghệ (bao gồm cả các tổ chức sản xuất sản phẩm ngoài lĩnh vực nghiên cứu của mình) không thuộc đối tượng áp dụng của Thông tư này mà phải tuân thủ các quy định tại Nghị định số 388-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng đối với doanh nghiệp Nhà nước ngày 20-11-1991, Nghị định số 222-HĐBT ngày 23-7-1991 và Nghị định số 221-HĐBT ngày 23-7-1991 của Hội đồng Bộ trưởng về cụ thể hoá một số điều trong Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân.
II. TỔ CHỨC ĐĂNG KÝ
2.1. Thủ tục đăng ký hoạt động.
Việc đăng ký hoạt động được tiến hành theo trình tự sau:
1) Mọi tổ chức khoa học và công nghệ khi đăng ký hoạt động phải nộp đơn xin đăng ký hoạt động (Phụ lục I) và tờ khai đăng ký (Phụ lục II) tới các cấp xét duyệt đăng ký kèm theo toàn bộ hồ sơ như quy định tại khoản 2 và 3 mục 2 dưới đây, thời gian không quá 03 tháng kể từ ngày có quyết định thành lập. Sau thời hạn trên, văn bản quyết định thành lập không còn giá trị để xin đăng ký hoạt động.
2) Các cấp xét duyệt đăng ký hoạt động sau khi nhận đầy đủ hồ sơ, có trách nhiệm xem xét, thẩm định hồ sơ và chậm nhất là 01 tháng phải cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động cho tổ chức khoa học và cộng nghệ, nếu hồ sơ hợp lệ. Trường hợp hồ sơ không hợp lệ cũng phải thông báo để tổ chức khoa học và công nghệ kịp thời bổ sung hồ sơ.
Nếu quá thời hạn 01 tháng thì các tổ chức khoa học và công nghệ có quyền khiếu nại tới các cấp có thẩm quyền để giải quyết.
3) Những trường hợp sau đây hồ sơ được coi là không hợp lệ
- Không đầy đủ hồ sơ theo quy định tại mục 2.2 dưới đây;
- Hồ sơ khai không đúng với kết quả thẩm định thực tế của các cơ quan có thẩm quyền;
- Trùng lặp tên gọi của tổ chức khoa học và công nghệ đã có. Trong trường hợp này, các cấp xét duyệt đăng ký cần thông báo cho tổ chức nộp hồ sơ sau (theo ngày tháng nhận hồ sơ) để thay đổi tên gọi.
4) Sau khi có giấy chứng nhận đăng ký hoạt động, các tổ chức khoa học và công nghệ mới được tiến hành các thủ tục xin khắc con dấu và đăng ký tài khoản theo quy định tại mục 2.5 dưới đây.
2.2. Quy định về hồ sơ
Các tổ chức khoa học và công nghệ khi đăng ký hoạt động phải xuất trình các hồ sơ sau:
1) Về quyết định thành lập
Tổ chức khoa học và công nghệ thuộc cấp (hoặc thành phần kinh tế) nào thì do cấp (hoặc thành phần kinh tế) đó ra quyết định thành lập và phải tuân thủ các quy định cụ thể dưới đây:
a. Đối với các tổ chức khoa học và công nghệ của Nhà nước:
Được Nhà nước tập trung đầu tư, trang bị, cấp kinh phí hoạt động, các tổ chức này khi đăng ký hoạt động phải có quyết định thành lập của cơ quan có thẩm quyền kèm theo ý kiến bằng văn bản của Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường đối với các cơ quan trung ương) hoặc cơ quan quản lý Khoa học, công nghệ và môi trường tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (đối với các cơ quan địa phương), cụ thể:
- Các Trung tâm khoa học và công nghệ quốc gia (về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn), các cơ quan khoa học và công nghệ chuyên ngành, có ý nghĩa toàn quốc, các Trung tâm khoa học vùng, lãnh thổ phải có quyết định của Thủ tướng Chính phủ kèm theo văn bản ý kiến của Bộ khoa học, công nghệ và môi trường và trình Thủ tướng của Ban Tổ chức - cán bộ Chính phủ;
- Các tổ chức khoa học và công nghệ trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ (được Nhà nước đầu tư và cấp kinh phí hoạt động) phải có quyết định của Thủ tướng Chính phủ, kèm theo văn bản ý kiến của Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường và tờ trình Thủ tướng Chính phủ của Ban Tổ chức - cán bộ Chính phủ. Trong trường hợp bộ, ngành tự đầu tư trang bị, cấp kinh phí hoạt động không thuộc ngân sách Nhà nước thì tổ chức khoa học và công nghệ chỉ cần xuất trình quyết định thành lập của Bộ, thủ trưởng cơ quan ngang bộ quản lý trực tiếp;
- Các tổ chức khoa học và công nghệ do ngân sách tỉnh đầu tư và cấp kinh phí hoạt động, phải có quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương kèm theo ý kiến của cơ quan quản lý khoa học, công nghệ địa phương và tờ trình của Ban Tổ chức chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và sở chủ quản;
- Các tổ chức khoa học và công nghệ của các cơ quan Nhà nước sau khi sắp xếp lại theo tinh thần Quyết định 324-CT ngày 11-9-1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, phải có quyết định của cơ quan chủ quản nếu cơ quan chủ quản bảo đảm hoạt động cho tổ chức khoa học và công nghệ đó bằng vốn tự có của mình. Trong trường hợp cơ quan chủ quản chỉ bảo đảm được một phần (bằng vốn tự có hoặc tài sản do Nhà nước trang bị trước đó) thì tổ chức khoa học và công nghệ đăng ký theo hình thức tổ chức tập thể và một trong số các sáng lập viên sẽ do cơ quan Nhà nước đó cử làm đại diện theo tinh thần mục b phần 3 Công văn số 40-TC/TCT/CS ngày 22-8-1992 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Quyết định 196-CT.
b. Các tổ chức khoa học và công nghệ của đoàn thể, tổ chức xã hội:
Khi đăng ký hoạt động, các tổ chức này phải xuất trình quyết định thành lập của cơ quan chủ quản.
c. Các tổ chức khoa học và công nghệ thuộc khu vực tập thể:
Phải có quyết định thành lập của tập thể chủ quản (các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp v.v...), hoặc đơn xin đăng ký hoạt động (xem Phụ lục I) với chữ ký của tất cả các sáng lập viên nếu tổ chức đó là của tập thể tự nguyện của các nhà khoa học.
d. Đối với các tổ chức khoa học và công nghệ của tư nhân:
Tư nhân tự làm đơn xin đăng ký hoạt động (Phụ lục I) và tờ khai đăng ký (Phụ lục II), với các điều kiện sau đây:
- Có quyền công dân theo luật định;
- Có chứng chỉ về trình độ chuyên môn trong lĩnh vực xin đăng ký hoạt động;
- Không phải là công chức Nhà nước hoặc đang làm việc trong các tổ chức khoa học và công nghệ của Nhà nước hoặc đang giữ các chức vụ trong bộ máy chính quyền các cấp theo chệ độ bầu cử;
- Không phải là sĩ quan tại ngũ thuộc các lực lượng vũ trang Việt Nam.
2) Điều lệ hoạt động của tổ chức khoa học và công nghệ.
Đối với tất cả các tổ chức khoa học và công nghệ, Điều lệ đều không được trái với pháp luật hiện hành và phải làm rõ:
- Tên gọi của tổ chức khoa học và công nghệ;
- Chức năng, nhiệm vụ, các lĩnh vực hoạt động;
- Các mối quan hệ;
- Trụ sở giao dịch chính thức;
- Vốn, tài sản và chế dộ sở hữu;
Chế độ sở hữu tài sản sẽ là căn cứ xem xét tổ chức khoa học và công nghệ thuộc thành phần kinh tế nào và làm cơ sở để khắc con dấu.
a. Đối với các tổ chức khoa học và công nghệ của Nhà nước:
Điều lệ phải được Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ ban hành theo sự uỷ nhiệm của Thủ tướng Chính phủ.
b. Đối với các tổ chức xã hội, đoàn thể: Điều lệ phải được cấp quyết định thành lập tổ chức ban hành.
c. Đối với các tổ chức khoa học và công nghệ của tập thể: Điều lệ do Tập thể chủ quản ban hành hoặc do Hội đồng sáng lập thông qua với chữ ký của tất cả các sáng lập viên.
d. Đối với các tổ chức khoa học và công nghệ của tư nhân: Điều lệ do tư nhân đề ra hoặc được Hội nghị toàn thể các sáng lập viên hoặc các cổ đông thông qua, cùng ký tên.
3) Về nhân lực khoa học
Mọi tổ chức khoa học và công nghệ đều nhất thiết phải có danh sách nhân lực khoa học với ít nhất là 10 người và 2/3 tổng số nhân lực phải có trình độ đại học trở lên trong lĩnh vực xin đăng ký hoạt động. Danh sách phải làm rõ:
+ Họ và tên, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nơi công tác (nếu có), chế độ công tác (chính nhiệm, kiêm nhiệm) của các nhân viên;
+ Cán bộ lãnh đạo:
Cán bộ lãnh đạo phải có lý lịch khoa học theo mẫu của Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường quy định tại Phụ lục V và lý lịch bản thân do chính quyền cơ sở xác nhận.
a. Đối với các tổ chức khoa học và công nghệ của Nhà nước thì lãnh đạo phải có trình độ chuyên môn từ phó tiến sĩ trở lên và có năng lực quản lý;
b. Đối với các tổ chức khoa học và công nghệ thuộc các thành phần kinh tế khác thì lãnh đạo phải có trình độ đại học trở lên (trừ trường hợp là nghệ nhân, những người được xã hội thừa nhận đặc cách) đồng thời phải đảm bảo các điều kiện như đã quy định tại phần d mục về Quyết định thành lập trên đây.
4) Về vốn
Khi đăng ký hoạt động, các tổ chức khoa học phải có giấy chứng nhận của cơ quan Tài chính và Ngân hàng về vốn theo quy định về vốn pháp định - là mức tối thiểu để thực hiện các hoạt động trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ quy định tại Phụ lục III. Phụ lục III chỉ quy định vốn pháp định cho việc tổ chức các hoạt động từ nghiên cứu khoa học đến sản xuất thử nghiệm và các hoạt động thông tin, tư vấn. Trường hợp tổ chức khoa học công nghệ xin đăng ký các hoạt động sản xuất (như đã quy định tại phần I trên đây) thì các cấp xét duyệt đăng ký phải vận dụng các danh mục vốn pháp định đối với từng ngành nghề ban hành kèm theo Nghị định số 221-HĐBT ngày 23-7-1991 của Hội đồng Bộ trưởng cụ thể hoá một số quy định trong Luật doanh nghiệp tư nhân; Nghị định số 222-HĐBT ngày 23-7-1991 của Hội đồng Bộ trưởng cụ thể hoá một số quy định trong Luật công ty.
Vốn pháp định của các tổ chức khoa học và công nghệ của Nhà nước tối thiểu không thấp hơn mức vốn pháp định của các tổ chức khoa học và công nghệ thuộc khu vực tập thể và tư nhân.
5) Giấy chứng nhận của địa phương về nơi đặt trụ sở của tổ chức khoa học và công nghệ.
6) Tờ khai đăng ký: quy định tại Phụ lục II.
Tờ khai do lãnh đạo tổ chức ký tên.
7) Phương án tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
2.3. Phân cấp xét duyệt
Theo Điều 15 của Nghị định 35-HĐBT, việc xét cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động được phân cấp như sau:
1. Đối với các tổ chức khoa học và công nghệ thuộc khu vực Nhà nước và đoàn thể do cấp Trung ương ra quyết định thành lập thì đăng ký tại Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường;
2. Đối với các tổ chức khoa học và công nghệ thuộc cấp cơ sở, ở địa phương và tập thể tự nguyện thì đăng ký tại cơ quan quản lý khoa học và công nghệ tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở của tổ chức;
3. Đối với các tổ chức khoa học và công nghệ của tư nhân thì đăng ký tại cơ quan quản lý khoa học và công nghệ tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở của tổ chức.
2.4 Quy định về lệ phí đăng ký
Để tiến hành các thủ tục xem xét, thẩm định hồ sơ các cấp xét duyệt đăng ký được phép thu một khoản lệ phí do Bộ Tài chính quy định tại Thông tư số 61-TC/TCT ngày 8-11-1991 về việc thu lệ phí cấp đăng ký kinh doanh đối với các doanh nghiệp.
2.5 Các thủ tục đăng ký con dấu và tài khoản.
1. Việc xét duyệt con dấu cho các tổ chức khoa học và công nghệ được phân cấp theo quy định hiện hành của Bộ Nội vụ. Để được cấp con dấu, các tổ chức khoa học và công nghệ phải có đầy đủ các hồ sơ sau:
- Có giấy chứng nhận đăng ký hoạt động;
- Có quyết định thành lập và điều lệ hoạt động của tổ chức như đã quy định tại mục 2.2 của Thông tư này;
Sau khi nhận đủ các hồ sơ trên, chậm nhất là 10 ngày các cấp xét duyệt con dấu phải cấp con dấu cho các tổ chức khoa học và công nghệ.
2. Việc đăng ký các loại tài khoản được tiến hành theo các thủ tục hiện hành quy định tại Công văn số 1950-TC/HCVX của Bộ Tài chính ngày 21-10-1992 và Công văn số 505-KT/TC2 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, căn cứ vào các nguồn thu chi của tổ chức khoa học và công nghệ. Cụ thể, căn cứ nguồn vốn của tổ chức khoa học và công nghệ quy định tại Điều 10 Nghị định 35-HĐBT thì việc đăng ký mở các loại tài khoản được quy định như sau:
- Đối với các nguồn vốn do Ngân sách Nhà nước cấp thì tuân thủ các quy định của Cục kho bạc Nhà nước;
- Đối với các nguồn vốn khác (kinh phí do thực hiện hợp đồng, vốn do liên doanh, liên kết, vốn vay ngân hàng, viện trợ của các tổ chức quốc tế...) thì các tổ chức khoa học và công nghệ được mở các loại tài khoản (kể cả tài khoản ngoại tệ) tại các ngân hàng chuyên doanh.
2.6. Quy định về thời hạn hiệu lực của giấy chứng nhận đăng ký.
Thời hạn hiệu lực của giấy chứng nhận đăng ký tùy thuộc vào lĩnh vực xin đăng ký:
- Đối với các lĩnh vực hoạt động chuyên đề mang tính ứng dụng thì thời hạn là 2 đến 3 năm;
- Đối với các lĩnh vực nghiên cứu dài hạn, đặc biệt là các nghiên cứu cơ bản thì thời hạn là 5 năm.
2.7. Kiểm tra và xử lý vi phạm
1) Những hình thức vi phạm quy chế đăng ký hoạt động
- Không có giấy chứng nhận đăng ký mà vẫn hoạt động;
- Hoạt động ngoài lĩnh vực đã đăng ký;
- Giấy chứng nhận đăng ký hết thời hạn hiệu lực mà vẫn hoạt động;
- Các hoạt động khác không vi phạm trực tiếp quy chế đăng ký hoạt động như các hoạt động vi phạm pháp luật, buôn lậu, trốn thuế, gây ô nhiễm môi trường, gây phương hại cho an ninh, quốc phòng...
2) Xử lý vi phạm
Các cấp xét duyệt đăng ký có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan hữu quan kiểm tra định kỳ hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ. Trong trường hợp phát hiện các vi phạm trên, các cấp xét duyệt đăng ký có thể áp dụng các biện pháp từ xử phạt hành chính (nhắc nhở, cảnh cáo bằng văn bản), đến thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt động và khuyến nghị các cấp có liên quan đình chỉ hoạt động, thu hồi con dấu, phong toả tài khoản..., tuỳ thuộc vào quy mô và mức độ vi phạm quy chế đăng ký.
Khi tổ chức khoa học và công nghệ bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt động và bị đình chỉ hoạt động, các cấp xét duyệt đăng ký có trách nhiệm thông báo về việc này bằng phương tiện thông tin đại chúng (phát thanh, truyền hình hoặc đăng báo hàng ngày của trung ương và địa phương sở tại ít nhất 5 số liên tiếp).
III. TRÁCH NHIỆM VÀ QUYỀN LỢI
3.1. Trách nhiệm:
Các tổ chức khoa học và công nghệ (kể cả các tổ chức hiện đang hoạt động) thuộc phạm vi điều chỉnh của Thông tư này, từ nay trở đi, nhất thiết phải có giấy chứng nhận đăng ký mới được hoạt động. Trong trường hợp ngược lại, hoạt động coi như phạm pháp.
Các tổ chức khoa học và công nghệ hiện đang hoạt động phải hoàn thành việc đăng ký chậm nhất sau 03 tháng kể từ khi ban hành Thông tư này. Đối với các tổ chức khoa học và công nghệ của Nhà nước thuộc diện này, trong khi chờ đợi sắp xếp lại theo tinh thần Quyết định 324-CT ngày 11-9-1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc "Tổ chức lại mạng lưới các cơ quan nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ", được tạm thời sử dụng quyết định thành lập cũ của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (có xác nhận của cơ quan chủ quản) để tiến hành các thủ tục đăng ký hoạt động.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động, tổ chức khoa học và công nghệ phải đăng báo hàng ngày của Trung ương và địa phương nơi tổ chức đặt trụ sở ít nhất 5 số liên tiếp về tên của tổ chức, địa chỉ, lĩnh vực hoạt động theo đăng ký, số tài khoản tại các ngân hàng, điện thoại, điện báo v.v...
3.2. Quyền lợi: Các tổ chức khoa học và công nghệ sau khi có giấy chứng nhận đăng ký sẽ được luật pháp bảo hộ, được bình đẳng trong hoạt động khoa học và công nghệ như: tham gia hoặc chủ trì các nhiệm vụ Nhà nước, hợp tác quốc tế, được áp dụng các chính sách thuế thích hợp và các quyền lợi khác theo quy định của pháp luật.
Lê Quý An (Đã ký) | Tô Tử Hạ (Đã ký) |