cơ sở dữ liệu pháp lý

Thông tin văn bản
  • Thông tư liên tịch số 01-TANDTC-VKSNDTC/TTLT ngày 08/12/1988 giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Hướng dẫn bộ luật tố tụng hình sự (Tình trạng hiệu lực không xác định)

  • Số hiệu văn bản: 01-TANDTC-VKSNDTC/TTLT
  • Loại văn bản: Thông tư liên tịch
  • Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  • Ngày ban hành: 08-12-1988
  • Ngày có hiệu lực: 23-12-1988
  • Tình trạng hiệu lực: Không xác định
  • Ngôn ngữ:
  • Định dạng văn bản hiện có:

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 01-TANDTC-VKSNDTC/TTLT

Hà Nội, ngày 08 tháng 12 năm 1988 

 

THÔNG TƯ LIÊN TỊCH

HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐ QUY ĐỊNH TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Để thi hành Bộ luật tố tụng hình sự, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn các Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự, Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:

I. THỦ TỤC GIAO NHẬN HỒ SƠ VÀ TANG VẬT GIỮA VIỆN KIỂM SÁT VÀ TÒA ÁN

Ngày Tòa án nhận hồ sơ do Viện Kiểm sát chuyển sang là ngày bắt đầu tính thời hạn chuẩn bị xét xử của Tòa án. Thời hạn này đã được Bộ luật tố tụng hình sự quy định, cho nên, việc giao nhận hồ sơ cần được tiến hành nghiêm túc, tránh tình trạng phải chuyển qua, chuyển lại nhiều lần làm cho quá trình giải quyết vụ án bị kéo dài, vi phạm thời hạn luật định. Do đó:

1. Khi chuyển hồ sơ sang Tòa án, Viện kiểm sát cần kiểm tra lại hồ sơ và tang vật của vụ án, bảo đảm hồ sơ có đủ các tài liệu đã liệt kê, đủ và đúng tang vật của vụ án.

Bản kê tài liệu của Viện Kiểm sát được đánh số thứ tự tiếp theo số thứ tự các tài liệu của cơ quan điều tra.

2. Viện kiểm sát trực tiếp giao hồ sơ cho Tòa án cùng cấp. Trường hợp Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát cùng cấp điều tra bổ sung cũng phải giao trực tiếp.

Người nhận hồ sơ đối chiếu bản kê tài liệu với các tài liệu có trong hồ sơ, nếu có thì ký nhận, nếu không đủ thì chưa nhận.

3. Tang vật của vụ án được chuyển giao cùng với hồ sơ vụ án khi Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra bổ sung thì không phải bàn giao lại tang vật, trừ trường hợp Viện kiểm sát có yêu cầu. Khi giao nhận tang vật phải lập biên bản. Biên bản có chữ ký của bên giao, bên nhận và được để trong hồ sơ.

4. Ngay sau khi nhận hồ sơ, Tòa án phải vào sổ thụ lý và đóng dấu (hoặc ghi) ngày nhận hồ sơ vào bìa hồ sơ (góc trên, bên trái).

Khi Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra bổ sung, thì Tòa án xóa sổ thụ lý, Viện kiểm sát ghi việc Tòa án trả lại hồ sơ vào sổ thụ lý của mình. Khi nhận lại hồ sơ, Tòa án thu lý lại. Ngày chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát và ngày thụ lý lại cũng được đóng dấu (hoặc ghi) vào bìa hồ sơ.

Các tài liệu của Tòa án được đánh số thứ tự tiếp theo số thứ tự các tài liệu của Viện kiểm sát. Các tài liệu của cấp phúc thẩm được đánh số thứ tự tiếp theo số thứ tự các tài liệu của cấp sơ thẩm. Không được thay đổi thứ tự trong hồ sơ vụ án.

5. Ngay sau khi nhận hồ sơ, thẩm phán được phân công xét xử vụ án phải giải quyết việc áp dụng, hay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn theo quyền hạn của mình, giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của những người tham gia tố tụng và tiến hành những việc khác cần thiết cho việc mở phiên tòa.

II. VẤN ĐỀ HỌP TRÙ BỊ

Bộ luật tố tụng hình sự không quy định thủ tục họp trù bị, cho nên, họp trù bị không phải là thủ tục tố tụng bắt buộc, mà chỉ là lề lối làm việc trong quan hệ phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát nhằm giúp nhau thực hiện tốt hơn những công việc thuộc chức năng của mỗi ngành. Do đó, bên nào thấy cần thì chủ động mời bên kia trao đổi những trường hợp cần trao đổi là:

- Khi Tòa án thấy cần trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra bổ sung, đổi tội danh nặng hơn hoặc áp dụng khung hình phạt nặng hơn;

- Khi Tòa án thấy cần đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án;

- Khi cần nhập hoặc tách vụ án;

- Khi cần chuyển vụ án cho Tòa án khác giải quyết (kể cả chuyển lên, chuyển xuống) hoặc chuyển cho Tòa án cùng cấp);

- Khi chuẩn bị xét xử vụ án điểm hoặc vụ án phức tạp;

 Các trường hợp cần thiết khác.

Thẩm phán chuẩn bị xét xử vụ án và kiểm sát viên sẽ tham gia phiên tòa trực tiếp trao đổi vói nhau. Trong trường hợp cần thiết thì cán bộ lãnh đạo của hai ngành cùng trao đổi. Tùy từng vụ án có thể mời thêm đại diện của cơ quan điều tra, giám định viên.

Sau khi trao đổi, dù nhất trí hay không nhất trí, mỗi bên vẫn tiến hành những công việc thuộc chức năng của mình. Thí dụ: Trường hợp Tòa án thấy cần trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung, qua trao đổi, Viện kiểm sát nhất trí thì Tòa án ra quyết định trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra bổ sung. Trường hợp Viện kiểm sát không nhất trí nhận lại hồ sơ để điều tra bổ sung đã nói rõ lý do, nhưng Tòa án vẫn thấy cần phải được điều tra bổ sung thì Tòa án ra quyết định trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra bổ sung. Trong quyết định phải nói rõ những vấn đề cần được điều tra bổ sung (theo Điều 154). Trong trường hợp này, Viện kiểm sát cùng cấp cần nghiên cứu, giải quyết yêu cầu của Tòa án. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và báo cho Tòa án biết. Nếu Viện kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu mà vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, thì chuyển hồ sơ trở lại cho Tòa án, kèm theo văn bản nói rõ lý do không điều tra bổ sung được. Khi nhận lại hồ sơ, trong thời hạn 15 ngày, Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

III. XEM XÉT VIỆC RÚT TRUY TỐ (các Điều 156, 169, 195, 196)

1. Trước khi mở phiên tòa, nếu Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ vụ án, nếu rút một phần, thì Hội đồng xét xử chỉ xét xử phần không bị rút truy tố.

2. Theo các Điều 169, 195 và 196, thì tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, nếu kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố, Hội đồng xét xử vẫn xét xử toàn bộ vụ án và có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận việc rút truy tố đó. Căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận được ghi trong bản án.

Nếu kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì trước khi nghị án, Hội đồng xét xử yêu cầu những người tham gia tố tụng (như người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự…) trình bày ý kiến về việc rút truy tố của Viện kiểm sát là có hay không có căn cứ.

Khi nghị án, nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội, thì Hội đồng xét xử tuyên án là bị cáo không phạm tội. Ngược lại, nếu có căn cứ xác định là bị cáo có tội thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ việc xét xử vụ án và kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên xem xét việc rút quyết định truy tố của Viện kiểm sát cấp dưới. Tòa án xóa sổ thụ lý và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cấp trên (cấp trên trực tiếp của Viện kiểm sát cùng cấp). Qua nghiên cứu hồ sơ và kiến nghị của Tòa án, nếu Viện kiểm sát cấp trên thống nhất với việc rút quyết định truy tố của Viện kiểm sát cấp dưới thì ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án đã tạm đình chỉ vụ án đó biết. Nếu Viện kiểm sát cấp trên nhất trí với kiến nghị của Tòa án thì ra quyết định huỷ việc rút quyết định truy tố của Viện kiểm sát cấp dưới và chuyển hồ sơ cho Tòa án đã tạm đình chỉ vụ án. Tòa án thụ lý lại và xét xử lại trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thu lý lại.

IV. SỰ CÓ MẶT CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA (Điều 164)

Theo Điều 164 Bộ luật tố tụng hình sự, thì kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia tất cả các phiên tòa của Tòa án cùng cấp.

Vì vậy, khi giao hồ sơ vụ án cho Tòa án, Viện kiểm sát cần thông báo về họ tên của kiểm sát viên sẽ tham gia phiên tòa để Tòa án ghi vào quyết định đưa vụ án ra xét xử. Nếu sau đó Viện kiểm sát cần thay đổi kiểm sát viên thì báo lại cho Tòa án để Tòa án thông báo cho những người tham gia tố tụng biết.

Để tạo điều kiện cho Viện kiểm sát chủ động trong việc bố trí kiểm sát viên tham gia tất cả các phiên tòa, hàng tháng các Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm gửi lịch phiên tòa cho Viện kiểm sát cùng cấp và thực hiện đúng lịch đó. Trường hợp Tòa án cần phải thay đổi lịch phiên tòa thì trao đổi trước với Viện kiểm sát cùng cấp.

V. GIỚI HẠN CỦA VIỆC XÉT XỬ (Điều 170)

Theo Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự "Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử". Do đó, các Tòa án không xét xử những người và hành vi chưa được Viện kiểm sát truy tố và không xét xử bị cáo theo tội danh nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát truy tố. Trước khi mở phiên tòa, nếu Tòa án thấy cần phải truy tố thêm người, thêm tội hoặc cần xét xử bị cáo theo tội danh khác nặng hơn, thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra bổ sung và thay đổi cáo trạng. Trường hợp qua xét xử tại phiên tòa mới phát hiện được tội phạm mới hoặc người phạm tội mới thì Tòa án ra quyết định khởi tố vụ án và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung. Trong trường hợp Tòa án đề nghị Viện kiểm sát đổi tội danh nặng hơn và đã trao đổi mà Viện kiểm sát không nhất trí, thì cả hai bên đều phải báo cáo ngay với cấp trên của mình. Thủ trưởng hai cơ quan cấp trên cần trao đổi ngay để nếu thống nhất ý kiến thì hướng dẫn cấp dưới thi hành, nếu vẫn không thống nhất ý kiến thì Tòa án cấp dưới phải xét xử theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố, không được tuyên là "bị cáo không phạm tội mà Viện kiểm sát đã truy tố".

Nếu xét thấy cần xét xử bị cáo theo tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố, hoặc áp dụng khung hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt mà Viện kiểm sát đã đề nghị, thì Tòa án không phải báo trước cho Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng.

VI. THỦ TỤC PHÚC THẨM

1. Về quyền kháng cáo (Điều 205)

a) Điều 205 Bộ luật tố tụng hình sự không nói về quyền kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị cáo chưa thành nêin nhưng theo tinh thần Điều 275 thì đại diện hợp pháp của bị cáo chưa thành nêin cũng có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của bị cáo. Đại diện hợp pháp của bị cáo chưa thành niên là bố mẹ hoặc người đỡ đầu của họ.

b) Người được Tòa án tuyên là vô tội có quyền kháng cáo phần lý do bản án sơ thẩm đã tuyên là họ vô tội. Đây là trường hợp người được tuyên là vô tội kháng cáo về các nhận định của Tòa án. Thí dụ: họ không thực hiện hành vi trái pháp luật, nhưng Tòa án lại nhận định họ có thực hiện hành vi trái pháp luật nhưng chưa đến mức cấu thành tội phạm (hoặc không cần truy cứu trách nhiệm hình sự). Trong trường hợp này, họ có quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa lại phần nhận định của bản án sơ thẩm cho đúng với sự thật.

c) Điều 39 quy định người bị hại có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định của Tòa án về phần bồi thường cũng như về hình phạt. Theo quy định này, người bị hại có thể kháng cáo yêu cầu Tòa án tăng hoặc giảm hình phạt cũng như tăng hoặc giảm mức bồi thường thiệt hại.

d) Việc kháng cáo quá hạn có thể được chấp nhận nếu có lý do chính đáng (Điều 209).

Lý do chính đáng là lý do khiến người có quyền kháng cáo không thể thực hiện được quyền hạn của mình trong thời hạn luật định (như bị bệnh hiểm nghèo, bị tai nạn phải đi cấp cứu ngay hoặc bị những cản trở khác, nên không thể kháng cáo được trong thời hạn kháng cáo). Trong những trường hợp này, người kháng cáo quá hạn phải nói rõ lý do kháng cáo quá hạn và ngay sau khi hết cản trở phải làm đơn kháng cáo ngay. Tòa án đã xử sơ thẩm xác minh về lý do kháng cáo quá hạn đó. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét và quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn kháng cáo quá hạn. Viện kiểm sát cùng cấp được thông báo để có thể tham gia việc xét đơn kháng cáo quá hạn đó.

2. Bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị (Điều 212)

Sau khi có kháng cáo, kháng nghị cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án, người đã kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền bổ sung hoặc thay đổi kháng cáo, kháng nghị, nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo.

Người đã kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã kháng nghị về tội nào thì có quyền bổ sung hoặc thay đổi kháng cáo hoặc kháng nghị của mình về tội đó. Còn đối với những tội chưa có kháng cáo, kháng nghị thì không được bổ sung hoặc thay đổi.

Làm xấu hơn tình trạng của bị cáo là làm cho bị cáo có thể bị Tòa án cấp phúc thẩm phạt nặng hơn, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn hoặc tăng mức bồi thường so với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Do đó, người đã kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã kháng nghị theo hướng giảm nhẹ cho bị cáo so với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, thì không được bổ sung hoặc thay đổi theo hướng tăng nặng cho bị cáo. Nếu đã kháng cáo hoặc kháng nghị theo hướng tăng nặng hình phạt thì không được bổ sung thêm hình phạt khác hoặc thay bằng loại hình phạt khác nặng hơn.

3. Thời gian nghiên cứu hồ sơ của Viện kiểm sát cấp phúc thẩm

Để tạo điều kiện cho Viện kiểm sát cấp phúc thẩm có tài liệu tham gia phiên tòa, khi gửi hồ sơ kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp sơ thẩm cần gửi thêm một bản sao bản án cho Viện kiểm sát cấp phúc thẩm (bản này không đánh số theo số thứ tự các tài liệu trong hồ sơ).

Để cả hai bên đều được chủ động thời gian nghiên cứu hồ sơ, trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ, Tòa án cấp phúc thẩm chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp để Viện kiểm sát nghiên cứu trước. Thời gian nghiên cứu hồ sơ của Viện kiểm sát cấp tỉnh là 10 ngày, của Viện phúc thẩm Viện kiểm sát nhân dân tối cao là 20 ngày. Viện kiểm sát phải hoàn toàn trả hồ sơ cho Tòa án trong thời hạn đó.

4. Phạm vi xét xử phúc thẩm (Điều 214)

Tòa án cấp phúc thẩm xem xét những phần của bản án sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị. Còn những phần không có kháng cáo, kháng nghị thì chỉ xem xét trong trường hợp cần thiết.

Trường hợp cần thiết là trường hợp ở phần không bị kháng cáo hoặc kháng nghị có điểm cần được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

5. Sửa bản án sơ thẩm (Điều 221)

a) Nếu chỉ có kháng cáo, kháng nghị theo hướng có lợi cho bị cáo, thì Tòa án cấp phúc thẩm chỉ có thể y án sơ thẩm/ hoặc sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho họ (khoản 1 Điều 221). Tòa án cấp phúc thẩm không được hủy bản án sơ thẩm để giao vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo. Nếu thấy rõ ràng là bản án sơ thẩm phạt quá nhẹ thì sau khi xử y án sơ thẩm, cần báo cáo và chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp giám đốc thẩm để xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm.

b) Đối với các bị cáo có kháng cáo, kháng nghị, dù họ có được giảm hình phạt hoặc được áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn hay không, nếu có căn cứ, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn có thể giảm hình phạt hoặc áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn cho bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.

c) Chỉ những bị cáo bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo hướng tăng nặng hình phạt, tăng mức bồi thường, áp dụng hình phạt bổ sung hoặc áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn, thì Tòa án cấp phúc thẩm mới có quyền xét xử theo hướng đó đối với họ.

Khi xét xử phúc thẩm bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện hoặc Tòa án quân sự khu vực theo hướng tăng hình phạt, cần chú ý là:

- Nếu chỉ có kháng cáo, kháng nghị yêu cầu tăng hình phạt, thì Tòa án cấp phúc thẩm tỉnh hoặc quân khu chỉ được tăng trong khung hình phạt, mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng, không được chuyển sang khung hình phạt khác nặng hơn.

- Nếu kháng cáo hoặc kháng nghị yêu cầu áp dụng khung hình phạt khác nặng hơn hoặc tội danh khác nặng hơn, những vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện hoặc Tòa án quân sự khu vực, thì Tòa án cấp phúc thẩm có quyền áp dụng khung hình phạt hoặc tội danh nặng hơn đó để xét xử bị cáo.

- Nhưng nếu khung hình phạt nặng hơn hoặc tội danh nặng hơn đó thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc Tòa án quân sự cấp quân khu, thì Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện hoặc Tòa án quân sự khu vực rồi chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp để Viện kiểm sát làm lại cáo trạng và Tòa án cấp tỉnh xét xử sơ thẩm lại cho đúng thẩm quyền.

d) Đối với các khoản bồi thường dân sự trong bản án hình sự, nếu không có kháng cáo, kháng nghị, thì Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét.

6. Giải quyết kháng cáo, kháng nghị các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm (Điều 225).

Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết kháng cáo, kháng nghị đối với các quyết định sơ thẩm nói ở Điều 213 bằng một hội đồng gồm 3 thẩm phán, không phải mở phiên tòa. Thời hạn giải quyết là 10 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ kháng cáo, kháng nghị. Tòa án cần thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết thời gian và địa điểm họp để Viện kiểm sát có thể tham gia.

VII. TẠM ĐÌNH CHỈ THI HÀNH BẢN ÁN HOẶC QUYẾT ĐỊNH KHÁNG NGHỊ THEO THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM HOẶC TÁI THẨM

Theo tinh thần của Điều 245 Bộ luật tố tụng hình sự thì những người đã kháng nghị bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết định đó. Quy định này có nghĩa là đối với bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật đang được thi hành, nếu thấy trong thời gian chờ xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm việc tiếp tục thi hành bản án hoặc quyết định đó có thể gây thiệt hại cho người phải thi hành, thì người đã kháng nghị có quyền quyết định tạm đình chỉ việc thi hành đó.

Theo quy định của Luật thì người "đã kháng nghị" có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành án, do đó, chỉ có thể quyết định việc tạm đình chỉ thi hành án ngay trong bản kháng nghị hoặc sau khi đã kháng nghị, chứ không được ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án trước khi kháng nghị.

Đối với các trường hợp đang chấp hành hình phạt tù thì chỉ nên tạm đình chỉ thi hành án khi đã có kháng nghị theo các hướng sau đây:

- Đình chỉ vụ án.

- Tuyên bố không phạm tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.

- Cho hưởng án treo hoặc áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù.

Trong quá trình thi hành Bộ luật tố tụng hình sự, nếu có vấn đề cần được hướng dẫn thêm thì Tòa án và Viện kiểm sát các cấp kịp thời phản ánh với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao để nghiên cứu hướng dẫn tiếp.