Thông tư liên bộ số 9-TC/NT ngày 04/02/1987 Thi hành chế độ thưởng khuyến khích sản xuất và giao hàng xuất khẩu bằng tiền việt nam do Bộ Tài chính-Ngoại thương ban hành (Văn bản hết hiệu lực)
- Số hiệu văn bản: 9-TC/NT
- Loại văn bản: Thông tư liên tịch
- Cơ quan ban hành: Bộ Ngoại thương, Bộ Tài chính
- Ngày ban hành: 04-02-1987
- Ngày có hiệu lực: 19-02-1987
- Ngày bị bãi bỏ, thay thế: 06-05-2000
- Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực
- Thời gian duy trì hiệu lực: 4825 ngày (13 năm 2 tháng 20 ngày)
- Ngày hết hiệu lực: 06-05-2000
- Ngôn ngữ:
- Định dạng văn bản hiện có:
BỘ NGOẠI THƯƠNG-BỘ TÀI CHÍNH | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 9-TC/NT | Hà Nội , ngày 04 tháng 2 năm 1987 |
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH-NGOẠI THƯƠNG SỐ 9-TC/NT NGÀY 4-2-1987 HƯỚNG DẪN THI HÀNH CHẾ ĐỘ THƯỞNG KHUYẾN KHÍCH SẢN XUẤT VÀ GIAO HÀNG XUẤT KHẨU BẰNG TIỀN VIỆT NAM
Liên bộ Tài chính-Ngoại thương hướng dẫn thi hành điều 14 của Quyết định số 117-HĐBT như sau:
- Tổ hợp sản xuất,
- Tập đoàn sản xuất,
- Hợp tác xã sản xuất, đã hoàn thành đầy đủ hợp đồng giao hàng xuất khẩu ký với các Liên hiệp Công ty xuất nhập khẩu địa phương, Công ty chuyên doanh địa phương (Công ty mây tre, Công ty mỹ nghệ...). Sau đây gọi chung là liên hiệp công ty xuất nhập khẩu địa phương, đối với những hàng xuất khẩu mà Liên hiệp Công ty xuất nhập khẩu địa phương giao cho Tổng Công ty xuất nhập khẩu Trung ương theo giá chỉ đạo của Nhà nước để Trung ương xuất khẩu thu ngoại tệ về cho quỹ ngoại tệ tập trung của Nhà nước.
B. Điều kiện được thưởng:
- Các cơ sở sản xuất tập thể phải hoàn thành đầy đủ hợp đồng với Liên hiệp Công ty xuất nhập khẩu địa phương về phần hàng giao cho Trung ương xuất khẩu. Mức ký trên hợp đồng không được thấp hơn chỉ tiêu kế hoạch về giao hàng xuất khẩu cho Trung ương do Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giao cho cơ sở sản xuất tập thể (chỉ tiêu mặt hàng xuất khẩu giao cho Trung ương do Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố giao cho các cơ sở sản xuất tập thể trực thuộc không được thấp hơn chỉ tiêu kế hoạch Trung ương giao cho các tỉnh, thành phố).
Hoàn thành hợp đồng có nghĩa là các cơ sở sản xuất tập thể phải thực hiện đúng các điều khoản ghi trong hợp đồng, chủ yếu là các điều khoản về;
- Số lượng và giá trị hàng hoá,
- Chủng loại, quy cách, phẩm chất hàng hoá,
- Thời hạn giao hàng.
Việc điều chỉnh giảm số lượng hoặc trị giá hàng hoá ghi trong hợp đồng ký giữa cơ sở sản xuất tập thể với Liên hiệp Công ty xuất nhập khẩu địa phương chỉ có giá trị sau khi chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố đã được điều chỉnh giảm. Thời hạn điều chỉnh hợp đồng giữa các bên ký kết là 15 ngày kể từ ngày điều chỉnh kế hoạch Nhà nước. Thời điểm điều chỉnh cuối cùng là ngày 30-9 hàng năm.
Nếu trong năm, vì điều kiện khách quan Nhà nước không cung cấp đủ vật tư nguyên liệu (có văn bản xác nhận của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước) để cơ sở sản xuất tập thể làm hàng xuất khẩu giao cho Trung ương thì cơ sở sản xuất tập thể được giảm tương ứng nghĩa vụ giao nộp hàng xuất khẩu cho Trung ương.
Giá giao hàng xuất khẩu cho Trung ương là gía chỉ đạo của Nhà nước, không xét thưởng trong những trường hợp giao theo giá thoả thuận.
Tỷ lệ thưởng cụ thể áp dụng cho từng nhóm mặt hàng như sau:
a) Nông, lâm súc sản 5%
b) Hàng khác 4%.
Giá trị vật tư do Nhà nước cung ứng được loại trừ khi tính thưởng là giá trị nguyên nhiên vật liệu được tổ chức xuất nhập khẩu cung ứng cho các cơ sở sản xuất tập thể để sản xuất hàng hoá giao cho Trung ương xuất khẩu.
Những căn cứ xác định khối lượng giá trị vật tư, nguyên liệu Nhà nước cung ứng:
- Định mức kinh tế kỹ thuật về tiêu hao nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu để sản xuất ra hàng xuất khẩu giao cho Trung ương do cấp có thẩm quyền quy định.
- Khối lượng vật tư, nguyên liệu do Nhà nước cung ứng.
- Giá vật tư, nguyên liệu do các tổ chức xuất nhập khẩu bán cho các cơ sở sản xuất tập thể.
- Đối với hàng nông lâm súc sản: 3% trên giá mua cơ sở.
- Đối với hàng hoá khác: 2% trên giá mua cơ sở.
Các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu trung ương căn cứ vào các tỷ lệ trên lập tờ khai thu bù chênh lệch ngoại thương khi hàng hoá được xuất khẩu và trích lập quỹ tiền thưởng khuyến khích xuất khẩu bằng tiền Việt Nam.
Khi chuyển sang thực hiện việc khoán tỷ giá cho các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu, thì các Tổng Công ty xuất nhập khẩu trung ương được trích, theo các tỷ lệ quy định trên để thành lập quỹ tiền thưởng khuyến khích xuất khẩu bằng tiền Việt Nam từ trong số tiền Việt Nam mà Ngân hàng kết hối cho Tổng Công ty xuất nhập khẩu Trung ương theo tỷ giá nhóm mặt hàng đã được Hội đồng tỷ giá xét duyệt.
Số tiền thưởng khuyến khích xuất khẩu bằng tiền Việt Nam của các Tổng Công ty xuất nhập khẩu trung ương được ghi vào 1 tài khoản ở Ngân hàng Ngoại thương và sử dụng theo điểm 2 dưới đây.
2. Cách thưởng, trình tự xét thưởng.
- Việc thưởng cần tiến hành ngay sau khi cơ sở sản xuất tập thể hoàn thành hợp đồng và không quá ngày 30-6 của năm sau năm kế hoạch.
- Sau khi các cơ sở sản xuất tập thể hoàn thành hợp đồng giao hàng xuất khẩu cho Trung ương, các Liên hiệp Công ty xuất nhập khẩu địa phương có trách nhiệm lập hồ sơ xét thưởng cho các cơ sở tập thể có đủ điều kiện được thưởng.
- Các cơ sở sản xuất tập thể có quyền khiếu nại với Bộ Ngoại thương khi thấy mình có đủ điều kiện được hưởng tiền thưởng khuyến khích xuất khẩu bằng tiền Việt Nam mà không được thưởng.
Khi có khiếu nại, Bộ Ngoại thương sẽ tiến hành kiểm tra. Nếu xác định được nguyên nhân cơ sở sản xuất không được thưởng là do Liên hiệp Công ty xuất nhập khẩu địa phương không làm thủ tục đề nghị xét thưởng thì Liên Bộ sẽ yêu cầu Liên hiệp Công ty xuất nhập khẩu địa phương phải trích quỹ khen thưởng của mình để trả cho cơ sở sản xuất tập thể đó với số tiền bằng số tiền mà họ được thưởng theo quy định trong Thông tư này.
Hồ sơ xét thưởng cho các cơ sở sản xuất gồm:
- Bản tính trị giá vật tư Nhà nước cung ứng (mẫu số 1),
- Bản tính thưởng (mẫu số 2),
- Bản sao hợp đồng giữa cơ sở sản xuất tập thể với Liên hiệp công ty xuất nhập khẩu địa phương,
- Bản tổng hợp tình hình giao chỉ tiêu cho các cơ sở sản xuất tập thể (mẫu số 3).
Sau khi lập xong hồ sơ, xét thưởng, Liên hiệp công ty xuất nhập khẩu địa phương chuyển hồ sơ cho tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu Trung ương liên quan.
Khi nhận được hồ sơ xét thưởng, các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu Trung ương có trách nhiệm kiểm tra lại các tài liệu đó, sau đó chuyển toàn bộ hồ sơ lên Bộ chủ quản, Bộ chủ quản xem xét và ra quyết định thưởng cho các cơ sở sản xuất tập thể theo mẫu số 4 (lập 3 bản). Bộ chủ quản xét duyệt xong chuyển trả toàn bộ hồ sơ cho tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu Trung ương (gồm toàn bộ hồ sơ do Liên hiệp công ty xuất nhập khẩu địa phương gửi và quyết định thưởng).
Căn cứ vào kết quả xét duyệt của Bộ chủ quản, các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu Trung ương chuyển quyết định thưởng của Bộ cho Liên hiệp công ty xuất nhập khẩu địa phương biết đồng thời gửi quyết định thưởng của Bộ và trích tiền thưởng chuyển thẳng cho cơ sở sản xuất tập thể được hưởng.
3. Báo cáo và quyết toán quỹ tiền thưởng.
Các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu Trung ương phải mở sổ sách theo dõi tình hình trích lập và sử dụng quỹ tiền thưởng khuyến khích xuất khẩu và báo cáo tình hình này trong các quyết toán quý, năm của mình.
Cuối năm, nếu vì lý do khách quan chưa kịp chi thưởng cho các cơ sở sản xuất tập thể thì các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu Trung ương phải dự tính khoản chi thưởng. Quỹ tiền thưởng khuyến khích xuất khẩu sau khi đã chi thưởng và trừ khoản dự tính chi thưởng mà vẫn còn thừa thì tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu Trung ương phải nộp vào Ngân sách Nhà nước chậm nhất là ngày 31-12 hàng năm. Sau đó các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu Trung ương phải quyết toán việc sử dụng các khoản dự chi với Bộ Tài chính và phải được thể hiện trong báo cáo quyết toán quý, năm của đơn vị.
4. Sử dụng tiền thưởng. Các cơ sở sản xuất tập thể được phân phối tiền thưởng vào các quỹ như sau:
- 30% quỹ tích luỹ,
- 70% quỹ công ích (tong đó dành 80% để khen thưởng cho cá nhân).
5. Tổ chức thực hiện.
Để phát huy tác dụng kích thích của chế độ thưởng đối với việc sản xuất hàng xuất khẩu trong khu vực tập thể, Liên Bộ yêu cầu các ngành các cấp làm tốt những việc sau đây:
- Các Bộ, Tổng cục ở Trung ương, Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố tổ chức phổ biến thông tư này đến các cơ sở sản xuất tập thể trực tiếp làm hàng xuất khẩu, làm cho các cơ sở này quán triệt mục đích, nội dung của chế độ, nhận rõ nghĩa vụ và quyền lợi của mình trong việc sản xuất và giao hàng xuất khẩu.
- Các Liên hiệp xuất nhập khẩu địa phương, các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu Trung ương cần nắm vững và chấp hành đúng các điều hướng dẫn trong thông tư này.
- Hàng năm, khi xét duyệt hoàn thành kế hoạch của các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu Trung ương, cơ quan quản lý cấp trên cần kiểm tra việc quản lý và sử dụng quỹ thưởng khuyến khích xuất khẩu bằng tiền Việt Nam này.
Các khoản thưởng sai chế độ cần được xuất toán và trừ vào số tiền thưởng của năm sau.
- Bộ Tài chính có trách nhiệm kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất tình hình thi hành chế độ thưởng này. Trong việc kiểm tra Bộ Tài chính có thể mời Bộ chủ quản (của những cơ sở được kiểm tra) cùng tham gia kiểm tra.
Thông tư này được thi hành để thưởng cho các cơ sở sản xuất tập thể thực hiện nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu cho Trung ương kể từ ngày 1-1-1986. Riêng đối với những cơ sở sản xuất tập thể thuộc ngành Hải sản thực hiện nghĩa vụ giao hàng cho Trung ương áp dụng chế độ quy định riêng. Các Liên hiệp công ty xuất nhập khẩu địa phương có thể vận dụng chế độ trên để thưởng cho các cơ sở sản xuất tập thể đã hoàn thành hợp đồng giao hàng xuất khẩu cho Liên hiệp để thực hiện kim ngạch xuất khẩu của tỉnh, nhưng mức thưởng không vượt quá mức thưởng đã quy định trong thông tư hướng dẫn này.
Hoàng Trọng Đại (Đã ký) | Ngô Thiết Thạch (Đã ký) |