cơ sở dữ liệu pháp lý

Dự thảo án lệ 17 (đợt 3): Án lệ về tranh chấp quyền sử dụng đất

 

Án lệ số …./2017 về tranh chấp quyền sử dụng đất

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày... tháng... năm... và được công bố theo Quyết định số.../QĐ-CA ngày... tháng... năm... của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 405/2012/DS-GĐT ngày 27-8-2012 của Hội đồng giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “tranh chấp quyền sử dụng đất” tại thành phố Hà Nội giữa NĐ; BĐ1, BĐ2; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là NLQ1, NLQ2, NLQ3; NLQ4; NLQ5.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 5 phần xét thấy của Quyết định giám đốc thẩm nêu trên.

Khái quát nội dung án lệ:

Tình huống án lệ:

Đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của nguyên đơn nhưng bị đơn đã xây dựng nhà và các tài sản trên đất trong thời gian quản lý, sử dụng đất đó.

Giải pháp pháp lý:

Trường hợp này, phải xác định giá trị của nhà và các tài sản gắn liền với đất để yêu cầu nguyên đơn thanh toán giá trị tài sản cho bị đơn mà không buộc bị đơn tháo dỡ nhà và các tài sản khác trên đất để trả lại đất cho nguyên đơn.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

Khoản 5 Điều 105 Luật đất đai năm 2003 (Điều 166 Luật đất đai năm 2013).

Điều 10 Nghị định 102/2014/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.

Điểm b mục II thông tư 01/TTLT ngày 19-6-1997 của Bộ tư pháp- Bộ tài chính- Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản.

Từ khóa án lệ:

“Tranh chấp quyền sử dụng đất”; “tháo dỡ nhà và các tài sản khác”; “thanh toán giá trị”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án NĐ trình bày:

Năm 1966 vợ chồng NĐ có sang nhượng phần đất 21 công tầm lớn ở A; năm 1969 vợ chồng NĐ đi ra vùng giải phóng giao đất lại cho mẹ chồng là bà B canh tác. Năm 1970 cha chồng chết, năm 1973 NĐ về lấy lại đất canh tác, nhưng do cụ B không ở chung nên NĐ chỉ lấy 15 công, còn lại 6 công để lại cho cụ B mượn canh tác.

Năm 1981 NĐ đòi lại đất nhưng cụ B không trả. Năm 1983 cụ B giao đất cho BĐ1 (cháu ngoại cụ B) canh tác, mỗi năm BĐ1 trả cho cụ B 20 giạ lúa nhưng BĐ1 trả được một thời gian rồi không trả. Năm 1997 cụ B làm giấy giao đất lại cho con gái là NLQ1 (mẹ ruột BĐ1) canh tác để NLQ1 nuôi cụ B, nhưng BĐ1 không đồng ý trả mà còn đi làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất NĐ không biết. Năm 2000 cụ B qua đời. NĐ và gia tộc đã đòi lại đất ngay sau đó, nhưng Ủy ban nhân dân xã và huyện giải quyết mãi không được, sau lại chuyển sang Tòa nên vụ việc kéo dài. Nay NĐ yêu cầu BĐ1 và BĐ2 trả lại 06 công đất để bà sử dụng.

NĐ xác định cụ B không biết chữ, nên không thể viết di ngôn cho đất BĐ1 vào năm 1993. Tờ di ngôn này có ghi là có mặt NLQ4, NLQ1 (là con gái cụ B) nhưng hai người này xác định không ký vào di ngôn của cụ B do BĐ1 xuất trình. Vì vậy, NĐ xác định BĐ1 làm giả di ngôn để chiếm đất của NĐ.

BĐ1 trình bày: Sau khi ông ngoại mất năm 1980, bà ngoại (cụ B) ở với vợ chồng BĐ1. Phần đất tranh chấp 06 công là của ngoại BĐ1 là cụ B sang của ông C và D, chứ không phải sang của ông E. Năm 1981 ngoại BĐ1 cho thuê đất 20giạ/năm, nhưng thấy BĐ1 nghèo khổ nên cụ B không lấy lúa. Ngày 19-02-1993 âm lịch, cụ B có lập di chúc để lại phần đất cho NĐ1. Do cụ B không biết chữ nên nhờ người khác viết, lúc viết BĐ1 không biết nhưng khi NLQ4 lại ký tên BĐ1 có chứng kiến. Sau đó cụ B giao di chúc và giao đất lại cho BĐ1 canh tác, quản lý đến nay. Năm 1994 cụ B đứng tên quyền sử dụng đất, đến năm 1997 chuyển quyền sử dụng đất lại cho BĐ1. Nay BĐ1 đã thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vay tiền Ngân hàng; hiện tại trên phần đất có nhà vợ chồng BĐ1 và nhà vợ chồng NLQ2 (con trai NĐ), đất BĐ1 đã đầu tư chuyển sang nuôi tôm hết 15.000.000d. BĐ1 không đồng ý trả đất cho NĐ. BĐ2 cũng thống nhất theo lời khai của BĐ1.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trình bày:

NLQ1 trình bày: Phần đất tranh chấp có nguồn gốc của vợ chồng NĐ (em dâu NLQ1) mua, sau đó giao cho cụ B canh tác. Mẹ NLQ1 có cho BĐ1 (con trai NLQ1) thuê đất mỗi năm 20 giạ lúa, BĐ1 có trả lúa thời gian ngắn rồi sau không trả và cũng không nuôi cụ B nên NLQ1 phải nuôi cụ B. Năm 1977 cụ B làm giấy giao đất lại cho NLQ1 canh tác nhưng BĐ1 không giao đất cho NLQ1. Nay NLQ1 xác định không ký tên vào di ngôn của Cụ B cho đất BĐ1 vào năm 1993. Nay cụ B đã chết, NLQ1 yêu cầu BĐ1 giao trả đất cho NĐ sử dụng.

NLQ4 trình bày: NLQ4 xác định cụ B không có đất và cũng không có tài sản. Phần đất tranh chấp theo NLQ4 biết là của vợ chồng NĐ mua. Do cụ B không ở chung với vợ chồng NĐ nên NLQ4 có động viên NĐ cho cụ B mượn đất, khi nào cụ B chết sẽ trả lại. NLQ4 không biết việc cụ B lập di chúc và cũng không ký tên vào di chúc.

NLQ2 trình bày: Cha mẹ NLQ2 là ông F, NĐ cho bà nội là cụ B mượn 06 công tầm lớn diện tích là 7.776m2 ( ngang 36m, dài 216m). Phần còn lại của NLQ2 1.944m2, khi đo đạc thực tế BĐ1 chiếm thêm 529m2. NLQ2 yêu cầu BĐ1 trả lại 06 công tầm lớn và đất BĐ1 chiếm thêm của NLQ2 là 592m2.

NLQ3 (vợ NLQ2) trình bày: NLQ3 thống nhất lời trình bày của NLQ2, không có ý kiến bổ sung.

Đại diện theo ủy quyền của NLQ5trình bày: Ngày 26-11-2009 BĐ1 và BĐ2 có thế chấp một giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên BĐ1 với tổng diện tích 7.780m2 số vào sổ 00146 do UBND huyện CN cấp tại tờ bản đồ số 10, thửa số 349 để vay vốn Ngân hàng 40.000.000đ, lãi tạm tính đến ngày 12-9-2009 là 175.000đ. Nay việc tranh chấp giữa BĐ và NĐ NLQ5 không ý kiến, NLQ5 chỉ yêu cầu BĐ1 và BĐ2 phải trả đủ khoản vay gốc và lãi đến ngày trả nợ cho NLQ5 trước khi buộc BĐ1 và BĐ2 trả đất cho NĐ hoặc trước khi hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì hiện nay nợ còn đang trong hạn theo hợp đồng đã ký kết với NLQ5.

Tại bản án dân sự sơ thẩm lần thứ nhất số 33/2006/DSST ngày 09-3-2006 của Tòa án nhân dân huyện CN quyết định:

Không chấp nhận yêu cầu đòi lại đất của NĐ. Giao cho BĐ1, BĐ2 được quản lý diện tích đất đo thực tế là 8.372m2 tại tờ bản đồ số 10, thửa số 349, đất tọa lạc tại A, xã TH, huyện CN, tỉnh Cà Mau, có vị trí:

- Đông giáp đất NLQ1 dài 207,5m.

- Tây giáp kênh công cộng dài 207,5m.

- Nam giáp đất NLQ2 dài 39m.

- Bắc giáp kênh Cái Bào Vũng dài 41,7m.

Buộc NLQ2 và NLQ3 tháo dỡ căn nhà giao trả đất cho BĐ1 và BĐ2.

Buộc BĐ1 có trách nhiệm thanh toán nợ cho NLQ5 theo hợp đồng tín dụng ngày 26-11-2003.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên nghĩa vụ chịu án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 14/3/2006, NĐ và NLQ2 kháng cáo không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 231/2006/DSPT ngày 19/6/2006 Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau quyết định:

Giữ nguyên hiện trạng đất cho BĐ1 và BĐ2. Giao cho BĐ1 và BĐ2 tiếp tục quản lý sử dụng theo đo đạc thực tế 8.372m2 tại tờ bản đồ số 10, thửa số 349, đất tọa lạc tại A, xã TH, huyện CN, tỉnh Cà Mau.

Bảo lưu hợp đồng tín dụng ngày 26-11-2003 của BĐ đối với NLQ5.

Sau khi xét xử phúc thẩm, NĐ, NLQ2 khiếu nại. Tại quyết định giám đốc thẩm số 298/2009/DS-GĐT ngày 20-7-2009 Hội đồng giám đốc thẩm Tòa dân sự - Tòa án nhân dân tối cao hủy bản án dân sự phúc thẩm và hủy bản án dân sự sơ thẩm giao hồ sơ vụ án về cho Tòa án nhân dân huyện CN xét xử sơ thẩm lại.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 14/2011/DSST ngày 11-3-2011 của Tòa án nhân dân huyện CN quyết định:

Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện đòi lại đất của NĐ đối với BĐ1 và BĐ2. Giao cho BĐ1 và BĐ2 tiếp tục quản lý phần đất có diện tích đo đạc thực tế 8.372m2 tại tờ bản đồ số 10, thửa số 349, đất tọa lại tại A, xã TH, huyện CN, tỉnh Cà Mau.

Buộc NLQ1 và NLQ2 tháo dỡ căn nhà giao trả đất cho BĐ1 và BĐ2.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên nghĩa vụ chịu án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 24-3-2010, NĐ và BĐ1kháng cáo không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 171/2011/DSPT ngày 24-8-2011 Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau quyết định: Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 14/2011/DSST ngày 11-3-2011 của Tòa án nhân dân huyện CN

Buộc BĐ1 và BĐ2 phải tự di dời nhà và tài sản khác gắn liền trên đất giao trả lại cho NĐ phần đất với diện tích đo thực tế là 8.372m2 tọa lạc tại A, xã TH, huyện CN, tỉnh Cà Mau thuộc thửa số 349, tờ bản đồ số 10, có vị trí tứ cận.

Phía đông giáp đất NLQ1 có cạnh dài 207,5m.

Phía tây giáp kênh công cộng có cạnh dài 207,5m.

Phía nam giáp đất NLQ2 có cạnh dài 39m.

Phía bắc giáp kênh Bào Vũng có chiều dài 41,7m.

Buộc NĐ phải hoàn lại công sức đầu tư, tôn tạo đất cho BĐ1 số tiền 15.000.000đ.

Buộc BĐ1và BĐ2 phải thanh toán nợ vay cho NLQ5 số tiền vốn 40.000.000đ và lãi theo hợp đồng tín dụng đã ký.

Sau khi xét xử phúc thẩm, BĐ1và BĐ2 có đơn khiếu nại, không đồng ý với bản án phúc thẩm.

Tại Quyết định số 57/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 17-7-2012, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với bản án dân sự phúc thẩm số 171/2011/DSPT ngày 24-8-2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau; Đề nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 14/2011/DSST ngày 11-3-2011 của Tòa án nhân dân huyện CN, tỉnh Cà Mau; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện CN, để xét xử sơ thẩm lại qui định của pháp luật, với nhận định: Phía nguyên đơn khởi kiện đòi lại đất cho rằng, cho cụ B mượn, song không xuất trình được tài liệu, chứng cứ để chứng minh. Trong khi đó cụ B được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 1995, chuyển quyền sử dụng sang BĐ1 năm 1997 và BĐ1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Như vậy, không có việc NĐ cho cụ B mượn đất. Mặt khác, vợ chồng BĐ1 và BĐ2 đã quản lý, sử dụng từ năm 1982 đến nay, nên cần giữ nguyên hiện trạng. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của khởi kiện của nguyên đơn là đúng. Tuy nhiên, buộc NLQ1 và NLQ2 (vợ NLQ 1) con NĐ phải dỡ nhà trả lại đất là không đúng, vì bị đơn không có yêu cầu phản tố. Còn Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của NĐ, buộc BĐ1 và BĐ2 phải di dời nhà và tài sản để giao trả đất cho NĐ là không có căn cứ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bị đơn.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao vẫn giữ nguyên quan điểm như nội dung kháng nghị.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và sau khi thảo luận, Hội đồng xét xử Tòa dân sự;

Hội đồng giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao nhận định:

Vụ án này đã được Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm thể hiện tại quyết định số 298/2009/DS-GĐT ngày 20-7-2009 hủy bản án dân sự phúc thẩm và hủy bản án dân sự sơ thẩm giao hồ sơ vụ án về cho Tòa án nhân dân huyện CN xét xử sơ thẩm lại với nhận định:

“Có căn cứ xác định nguồn gốc diện tích đất tranh chấp đo thực tế 8.372m2 tại ấp A, xã TH, huyện CN, tỉnh Cà Mau là của vợ chồng NĐ tạo lập từ năm 1966. Do cụ B là mẹ chồng NĐ không ở cùng NĐ nên sau đó NĐ giao cho cụ B sử dụng, từ năm 1966 đến năm 1983 cụ B giao cho BĐ1 canh tác để nuôi cụ B nhưng BĐ1 chỉ nuôi cụ B thời gian ngắn và cũng không trả đất cho cụ B nên NĐ đã tranh chấp với BĐ1 từ năm 1995.

BĐ1 cho rằng đất tranh chấp do BĐ1 được cụ B di ngôn cho BĐ1 được sử dụng đất của cụ, BĐ1 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1997 và BĐ1 xuất trình “Tờ duy ngôn” của cụ B viết ngày 19-2-1993 cho BĐ1 4 công đất để chứng minh. Tuy nhiên, trong di ngôn này có ghi tên NLQ4 và NLQ1 là con gái cụ B chứng kiến, nhưng NLQ1 và NLQ4 không thừa nhận có ký vào di ngôn nêu trên. Cụ B đã nhiều tuổi, không biết chữ, phải điểm chỉ, nhân chứng là con gái Cụ B thì không thừa nhận ký vào di ngôn, nên chưa đủ căn cứ xác định BĐ1 đã được cụ B cho đất. Lẽ ra, phải làm rõ xem có đúng chữ ký của bà NLQ1 và NLQ4 vào di ngôn của cụ B hay không? Ngoài ra còn những người bàn cận là F, G, H ký xác nhận và làm chứng vào di ngôn của cụ B. Vì vậy, cần xác minh những nhân chứng này để xác định việc cụ B lập di ngôn có đúng ý chí cụ không. Trong hồ sơ có xác nhận của ông I hiện là Bí thư chi bộ ấp A, năm 1995 ông là trưởng Ban nhân dân ấp A, theo đó ông I khẳng định năm 1995 NĐ đã tranh chấp đất với BĐ1, nhưng năm 1997 BĐ1 vẫn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy cần xác minh việc cấp giấy chứng nhận cho BĐ1 đối với diện tích đất tranh chấp có đúng thủ tục không. Trên cơ sở đó mới có căn cứ xác định BĐ1 được cụ B cho đất hay không để công nhận hay không công nhận cho BĐ1 quyền sử dụng hợp pháp diện tích đất này”.

Xét thấy, trong quá trình giải quyết lại, Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện những yêu cầu mà Tòa án cấp giám đốc thẩm đã nêu trên như trưng cầu giám định và cơ quan chuyên môn đã kết luận không đủ cơ sở truy nguyên người ký vào di ngôn, trong khi đó NLQ4, NLQ1 mẹ BĐ1 vẫn khẳng định diện tích đất tranh chấp không phải của BĐ1 mà của NĐ. Việc xác định BĐ1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích đất nêu trên năm 1997 cũng không đúng thủ tục theo qui định tại khoản 3 Điều 30 Luật đất đai năm 1993, vì đất đang có tranh chấp. Với nội dung đó và không có tình tiết khác nhưng Tòa án cấp sơ thẩm vẫn giao cho BĐ1 và BĐ2 tiếp tục quản lý diện tích đo đạc thực tế 8.372m2 đất tại tờ bản đồ số 10, thửa số 349, đất tọa lại tại ấp A, xã TH, huyện CN là chưa có căn cứ vững chắc. Đồng thời vợ chồng NLQ2 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho rằng BĐ1 lấn chiếm của của NLQ2 529m2 đất (trong tổng diện tích đất đang tranh chấp) và trên đó có nhà vợ chồng NLQ2 đang ở nhưng Tòa án cấp sơ thẩm buộc vợ chồng NLQ2, NLQ3 phải tháo dỡ nhà để trả đất cho BĐ1 cũng là không đúng.

Tòa án cấp phúc thẩm xác định diện tích đất nêu trên của NĐ là có căn cứ. Tuy nhiên, Tòa án cấp phúc thẩm buộc vợ chồng BĐ1 phải tháo dỡ nhà và các tài sản khác gắn liền trên đất để lại đất cho NĐ cũng là không đúng. Lẽ ra, Tòa án cần xác định rõ giá trị sử dụng còn lại của các tài sản này giao cho NĐ sở hữu, buộc NĐ thanh toán lại giá trị cho BĐ1 mới giải quyết triệt để vụ án, đảm bảo quyền lợi của các đương sự.

Bởi các lẽ trên; Căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự:

QUYÊT ĐỊNH:

Hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm số 171/2011/DS-PT ngày 24-8- 2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau và hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 14/2011/DS-ST ngày 11-3-2011 của Tòa án nhân dân huyện A2 về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa NĐ với bị đơn là BĐ1, BĐ2.

Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện CN, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

Tòa án cấp phúc thẩm xác định diện tích đất nêu trên của NĐ là có căn cứ. Tuy nhiên, Tòa án cấp phúc thẩm buộc vợ chồng BĐ1 phải tháo dỡ nhà và các tài sản khác găn liền trên đất để lại đất cho NĐ cũng là không đúng. Lẽ ra, Tòa án cần xác định rõ giá trị sử dụng còn lại của các tài sản này giao cho NĐ sở hữu, buộc NĐ thanh toán lại giá trị cho BĐ mới giải quyết triệt để vụ án, đảm bảo quyền lợi của các đương sự.

(nguồn Cổng thông tin điện tử TANDTC (www.toaan.gov.vn))

 

Dự thảo án lệ số 06/2024 về xác định pháp luật điều chỉnh hợp đồng xây dựng

DỰ THẢO ÁN LỆ SỐ 06/2024[I]

ÁN LỆ SỐ .../2024/AL

Về xác định pháp luật điều chỉnh hợp đồng xây dựng

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua vào ngày ... tháng ... năm 2024 và được công bố theo Quyết định số .../QĐ-CA ngày ... tháng . năm 2024 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 12/2019/DS-GĐT ngày 24/9/2019 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp bồi thường thiệt hại hợp đồng khoan phá đá” giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ Q với bị đơn là Tổng Công ty công nghiệp hóa chất mỏ V.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 5 phần “Nhận định của Tòa án”.

Khái quát nội dung của án lệ:

- Tình huống án lệ:

Các bên ký kết hợp đồng thi công xây dựng và có tranh chấp về hợp đồng này.

- Giải pháp pháp lý:

Trường hợp này, Tòa án phải áp dụng quy định của pháp luật xây dựng để giải quyết; trường hợp pháp luật xây dựng không có quy định thì áp dụng quy định Bộ luật Dân sự để giải quyết.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

- Khoản 1 Điều 138 Luật Xây dựng năm 2014;

- Điều 4 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Từ khoá của án lệ:

“Hợp đồng xây dựng”; “Luật Xây dựng”; “Luật Thương mại”; “Bộ luật Dân sự”; “Pháp luật điều chỉnh hợp đồng xây dựng”; “Hợp đồng thi công xây dựng”.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Tại Đơn khởi kiện đề ngày 02/12/2014, Đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 28/01/2015 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là Công ty cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ Q - sau đây viết tắt là Công ty Q (do ông Phạm D đại diện) trình bày:

Ngày 22/02/2012, Công ty Q và Công ty công nghiệp Hóa chất mỏ T (là Chi nhánh thuộc Tổng Công ty công nghiệp hóa chất mỏ - V; sau đây viết tắt là Công ty T) ký Hợp đồng kinh tế số 16/HĐTC/12 về việc Công ty Q khoán cho Công ty T khoan, phá đá tại công trình xây dựng Nhà máy thủy điện H (thành phố B, tỉnh Đắk Lắk), Công ty Q cho rằng trong quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty T đã thi công chậm tiến độ và tự ý di dời máy móc, thiết bị, nhân lực ra khỏi công trình, để lại khối lượng việc dở dang mà không thông báo bằng văn bản cho Công ty Q biết. Để kịp bàn giao công trình cho chủ đầu tư, Công ty Q phải thuê Công ty khác tiếp tục thi công phần việc dở dang. Ngày 25/9/2013, hai bên đã lập biên bản nghiệm thu công trình nhưng sau đó Công ty T vẫn không lập đủ hồ sơ thanh quyết toán và cũng không đồng ý bồi thường cho Công ty Q các thiệt hại do việc thi công chậm tiến độ gây ra (chi phí xử lý khối lượng việc còn lại, chi phí kéo dài dự án, thiệt hại do chủ đầu tư không chấp nhận bù trượt giá). Vì vậy, Công ty Q khởi kiện yêu cầu Tổng Công ty công nghiệp hóa chất mỏ - V bồi thường thiệt hại do Công ty T gây ra cho Công ty Q với số tiền 3.400.000.000 đồng.

Bị đơn là Tổng Công ty công nghiệp hóa chất mỏ V (do ông Nguyễn Văn S đại diện) trình bày.

Ngày 22/02/2012, Công ty Q và Công ty T có ký Hợp đồng kinh tế số 16/HĐTC/12 thỏa thuận về việc khoan, phá đá tại công trình xây dựng Nhà máy thủy điện H. Sau khi ký hợp đồng, Công ty T tiến hành thi công khoan nổ mìn 4 đợt từ ngày 06/4/2012 đến 18/12/2012 với tổng giá trị thực hiện là 4.963.278.539 đồng. Tổng số tiền Công ty Q còn nợ Công ty T qua 04 đợt thi công là 3.279.084.691 đồng và hai bên đã ký Biên bản họp thanh lý hợp đồng ngày 07/11/2014. Riêng phần công việc còn dở dang hai bên thống nhất để lại 25% giá trị nghiệm thu của đợt 4 để xử lý. Công ty T đã gửi hóa đơn, chứng từ hợp lệ nhưng Công ty Q không thanh toán tiền. Tổng Công ty công nghiệp hóa chất mỏ - V không đồng ý với yêu cầu của Công ty Q về việc bồi thường thiệt hại tương ứng với số tiền 3.400.000.000đ.

Ngày 23/3/2015, Tổng Công ty công nghiệp hóa chất mỏ V có đơn phản tố, đề nghị Tòa án buộc Công ty Q trả số tiền còn nợ trong 4 đợt thi công là 3.279.084.691 đồng và lãi chậm trả theo quy định của pháp luật.

Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 02/2016/KDTM-ST ngày 18/5/2016, Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai đã quyết định:

Bác yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ Q về việc yêu cầu Tổng Công ty công nghiệp hóa chất mỏ - V bồi thường thiệt hại do chi nhánh của mình là Công ty công nghiệp hóa chất mỏ T gây thiệt hại cho Công ty cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ Q với số tiền là 3.400.000.000 đồng.

Chấp nhận yêu cầu phản tố của Tổng Công ty công nghiệp hỏa chất mỏ - V.

Buộc Công ty cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ Q phải thanh toán cho Tổng Công ty công nghiệp hóa chất mỏ - V thông qua Công ty công nghiệp hóa chất mỏ T số tiền là 3.279.084.691 đồng (trong đó tiền nợ gốc là 3.279.084.691 đồng và tiền nợ lãi là 432.019.407 đồng).

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 25/5/2016, Công ty Q kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 05/2016/KDTM-PT ngày 26/9/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã quyết định:

Không chấp nhận kháng cáo của Công ty cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ Q; giữ nguyên Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 02/20Ỉ6/KDTM- ST ngày 18/5/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai.

Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 33/2017/KN-KDTM-VC2 ngày 05/5/2017, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 05/2016/KDTM-PT ngày 26/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai; đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm nêu trên và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 02/2016/KDTM-ST ngày 18/5/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm lại.

Quyết định giám đốc thẩm số 25/2017/KDTM-GĐT ngày 21/8/2017, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng quyết định:

Hủy toàn bộ Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 05/2016/KDTM- PT ngày 26/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai và hủy toàn bộ Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 02/2016/KDTM-ST ngày 18/5/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Ngày 19/12/2017, ông Võ Văn Bình, Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai có đơn đề nghị xem xét Quyết định giám đốc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định số 08/2019/KN-KDTM ngày 17/6/2019, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Quyết định giám đốc thẩm số 25/2017/KDTM-GĐT ngày 21/8/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy Quyết định giám đốc thẩm nêu trên, hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 05/2016/KDTM-PT ngày 26/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 02/2016/KDTM-ST ngày 18/5/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Căn cứ các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án thấy rằng: Theo Biên bản làm việc ngày 25/9/2013 giữa Công ty Q và Công ty T thì tính đến ngày 25/9/2013 Công ty T vẫn chưa hoàn thiện hồ sơ nghiệm thu theo quy định và chưa thi công hoàn thiện hố móng theo thiết kế; Công ty Q phải đưa búa căn vào đục để kịp tiến độ bàn giao công trình cho chủ đầu tư. Điều này thể hiện Công ty T đã thi công chậm tiến độ theo hợp đồng. Phía Công ty Q cũng không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán của 4 đợt nghiệm thu theo điểm 2.2 khoản 2 Điều 3 của Hợp đồng. Tại Biên bản đối chiếu công nợ ngày 05/5/2014, ngày 30/8/2014 và Biên bản họp thanh lý hợp đồng ngày 07/11/2014, Công ty Q đã thừa nhận còn nợ Công ty T số tiền 3.279.084.691 đồng và cam kết sẽ trả cho Công ty T 500.000.000 đồng vào cuối mỗi tháng (tính từ cuối tháng 11 năm 2014) nhưng sau đó Công ty Q không thực hiện. Như vậy, trong quá trình thực hiện Hợp đồng, cả Công ty Q và Công ty T không tuân thủ các nội dung của Hợp đồng về thời gian thi công và nghĩa vụ thanh toán. Tuy nhiên, cũng cần đánh giá nguyên nhân của các vi phạm này, ý chí của các bên trong quá trình thực hiện để xét lỗi.

[2] Đối với phần công việc còn dang dở, tại Biên bản họp thanh lý Hợp đồng ngày 07/11/2014, Công ty Q và Công ty T thống nhất giữ lại 25% giá trị nghiệm thu của đợt 4 để làm chi phí xử lý các công việc tồn đọng của hố móng do việc không thi công hoàn thiện hố móng bằng công tác nổ nhỏ. Trong trường họp này, khi giải quyết vụ án, Tòa án các cấp phải xác định khối lượng công việc thực tế còn lại là bao nhiêu, có tương ứng với với 25% giá trị nghiệm thu của đợt 4 hay không? Trường hợp số tiền 25% giá trị nghiệm thu của đợt 4 không đủ để chi phí xử lý các công việc tồn đọng thì Công ty T phải trả cho Công ty Q số tiền còn thiếu. Trường hợp khối lượng công việc còn lại trong thực tế ít hơn 25% giá trị nghiệm thu của đợt 4 thì Công ty Q phải trả Công ty T phần giá trị dư ra. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa thu thập chứng cứ để làm rõ và tính cụ thể khối lượng công việc thực tế còn tồn đọng là bao nhiêu, mà lại bác yêu cầu bồi thường thiệt hại của Công ty Q là không có căn cứ.

[3] Quyết định giám đốc thẩm của ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng không xem xét sai sót của Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm mà nhận định rằng: số tiền 25% của đợt 4 giữ lại để xử lý khối lượng công việc mà Công ty T chưa hoàn thiện không liên quan đến việc bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng là chưa thỏa đáng. Bên cạnh đó, cấp giám đốc thẩm nhận định đối với yêu cầu đòi bồi thường của nguyên đơn trên cơ sở so sánh giá trị tạm tính của hợp đồng với giá trị khối lượng công việc đã nghiệm thu để cho rằng Công ty T mới hoàn thành 50% khối lượng công việc nhận khoán là không đúng. Trường họp này cần căn cứ vào Biên bản thanh lý Hợp đồng ngày 07/11/2014 để xác định khối lượng công việc thực tế theo thỏa thuận giữa hai bên trong Hợp đồng và thu thập chứng cứ để làm rõ những thiệt hại (nêu có) mà Công ty Q phải gánh chịu như nguyên đơn yêu cầu.

[4] Ngày 23/3/2015, Tổng Công ty Công nghiệp Hóa chất mỏ - V có đơn phản tố, đề nghị Tòa án buộc Công ty Q thanh toán số tiền còn thiếu trong 4 đợt thi công là 3.279.084.691 đồng và lãi chậm trả theo quy định của pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã xem xét, giải quyết cả yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của nguyên đơn và yêu cầu phản tố của bị đơn, nhưng Quyết định giám đốc thẩm số 25/2017/KDTM-GĐT ngày 21/8/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng chỉ nhận định đối với phần yêu cầu đòi bồi thường của nguyên đơn, còn đối với yêu cầu phản tố của bị đơn thì không xem xét, nhưng lại tuyên hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm để giao xét xử sơ thẩm lại là không đúng.

[5] Ngoài ra, Hợp đồng số 16/HĐTC/12 ngày 22/02/2012 giữa Công ty Q và Công ty T liên quan đến hoạt động xây dựng, được xác lập trên cơ sở Hợp đồng thi công xây dựng số 01/HP-XD/HĐ ngày 18/8/2011 giữa Công ty cổ phần điện M với Công ty Q, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại áp dụng Luật Thương mại để giải quyết vụ án là không đúng. Trong trường hợp này, cần xác định quan hệ tranh chấp liên quan đến lĩnh vực xây dựng, nên cần áp dụng pháp luật xây dựng. Trường hợp pháp luật xây dựng không quy định thì áp dụng Bộ luật Dân sự để giải quyết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 337, Điều 342, khoản 3 Điều 343, Điều 345 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 08/2019/KN-KDTM ngày 17/6/2019 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

2. Hủy Quyết định giám đốc thẩm số 25/2017/KDTM-GĐT ngày 21/8/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 05/2016/KDTM-PT ngày 26/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai và hủy Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2016/KDTM-ST ngàyX 18/5/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai về vụ án “Tranh chấp bồi thường thiệt hại hợp đồng khoan phá đá” giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần Xây dựng thương mại và Dịch vụ Q với bị đơn là Tổng Công ty công nghiệp hóa chất mỏ - V.

3. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm, đúng quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ:

“[5] ... Hợp đồng số 16/HĐTC/12 ngày 22/02/2012 giữa Công ty Q và Công ty T liên quan đến hoạt động xây dựng, được xác lập trên cơ sở Hợp đồng thi công xây dựng số 01/HP-XD/HĐ ngày 18/8/2011 giữa Công ty cổ phần điện M với Công ty Q, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại áp dụng Luật Thương mại để giải quyết vụ án là không đúng. Trong trường hợp này, cần xác định quan hệ tranh chấp liên quan đến lĩnh vực xây dựng, nên cần áp dụng pháp luật xây dựng. Trường hợp pháp luật xây dựng không quy định thì áp dụng Bộ luật Dân sự để giải quyết.”

DO ĐỀ XUẤT ÁN LỆ

Hợp đồng xây dựng giữa các doanh nghiệp rất phổ biến và thường xuyên có tranh chấp. Khi tranh chấp, cần áp dụng pháp luật dành riêng cho hợp đồng xây dựng. Tuy nhiên, đối với nhiều vấn đề, pháp luật xây dựng lại chưa có quy định như thời hiệu khởi kiện, mức phạt vi phạm hợp đồng (khi không dùng ngân sách nhà nước), mức lãi chậm trả. Vì vậy, cần phải xác định nguồn pháp luật bổ sung để điều chỉnh.

Hiện nay có sự không thống nhất giữa các chuyên gia và Tòa án địa phương: Hướng thứ nhất là áp dụng Luật thương mại (và khi Luật thương mại không có quy định thì lại quay sang áp dụng Bộ luật dân sự) và hướng thứ hai là áp dụng Bộ luật dân sự (mà không qua trung gian là áp dụng Luật thương mại). Việc áp dụng hướng nào trong hai hướng vừa nêu có hệ quả rất quan trọng vì Luật thương mại và Bộ luật dân sự thường rất khác nhau về nội dung. Trong Quyết định giám đốc thẩm này, Hội đồng thẩm phán đã có hướng giải quyết rõ: Không áp dụng Luật thương mại mà áp dụng Bộ luật dân sự. Hướng này phù hợp với Luật Xây dựng năm 2014 khi Luật này khẳng định hợp đồng xây dựng là “hợp đồng dân sự” (khoản 1 Điều 138) và Điều 4 Bộ luật Dân sự năm 2015 khẳng định “Trường hợp luật khác có liên quan không quy định hoặc có quy định nhưng vi phạm khoản 2 Điều này thì quy định của Bộ luật này được áp dụng” (khoản 3). Nội dung đoạn in nghiêng trong quy định vừa nêu cho thấy, khi luật có liên quan (và Luật Xây dựng là một dạng Luật có liên quan) không quy định, Bộ luật Dân sự không theo hướng áp dụng Luật Thương mại mà khẳng định “Bộ luật này được áp dụng”. Trong vụ án này, quan hệ tranh chấp liên quan đến lĩnh vực xây dựng, Hội đồng thẩm phán đã xác định rõ cần áp dụng pháp luật xây dựng; trường hợp pháp luật xây dựng không quy định thì áp dụng Bộ luật Dân sự để giải quyết.

Do đó, để áp dụng thống nhất pháp luật trong các vụ án có tình huống pháp lý tương tự thì việc phát triển án lệ về vấn đề này là cần thiết.

Nguồn Trang tin điện tử về án lệ (anle.toaan.gov.vn)

[I] Dự thảo án lệ này do GS. TS. Đỗ Văn Đại - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đề xuất.

Sự kiện bất khả kháng và sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản: Khi cuộc sống “đổi kịch bản” hợp đồng

Trong đời sống pháp luật, hợp đồng giống như một bản cam kết: hai bên hứa sẽ làm đúng những gì đã thỏa thuận. Nhưng cuộc sống đâu phải lúc nào cũng êm ru – đôi khi, những chuyện ngoài tầm tay xảy ra, khiến việc thực hiện hợp đồng trở thành “nhiệm vụ bất khả thi”. Lúc đó, pháp luật Việt Nam đưa ra hai “cứu tinh”: sự kiện bất khả kháng và sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản. Hai khái niệm này thoạt nhìn giống nhau, nhưng lại có những điểm khác biệt thú vị, và mối quan hệ giữa chúng cũng đáng để nghiền ngẫm. Hãy cùng tìm hiểu nhé!

Sự kiện bất khả kháng: Khi “trời đất” không cho phép

Sự kiện bất khả kháng, theo Điều 156, Khoản 1, Bộ luật Dân sự 2015, là “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Nói dễ hiểu, đây là những chuyện “từ trên trời rơi xuống” mà bạn không kiểm soát nổi, như thiên tai, chiến tranh, hay dịch bệnh lớn.

Ví dụ nhé: Bạn ký hợp đồng thuê một hội trường để tổ chức hội thảo vào tháng 3/2020. Nhưng đúng lúc đó, dịch Covid-19 bùng phát, Chính phủ ban hành lệnh giãn cách, cấm tụ tập đông người. Bạn không thể tổ chức hội thảo, bên cho thuê cũng không thể giao hội trường. Đây là sự kiện bất khả kháng, vì không ai ngờ được đại dịch, và dù có muốn, bạn cũng không thể “chống lệnh” Chính phủ. Theo Điều 351, Khoản 2, bên vi phạm hợp đồng vì bất khả kháng sẽ được miễn trách nhiệm – tức là bạn không phải bồi thường, và bên cho thuê cũng không thể kiện bạn.

Sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản: Khi mọi thứ “đổi game”

Còn sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản thì sao? Theo Điều 420, Khoản 2, Bộ luật Dân sự 2015, đây là trường hợp hoàn cảnh thay đổi quá lớn so với lúc ký hợp đồng, đến mức nếu biết trước, các bên đã không ký hoặc ký với điều kiện khác. Khác với bất khả kháng, nó không hẳn là “bất khả thi” để thực hiện hợp đồng, mà là thực hiện thì quá bất công hoặc thiệt hại nặng nề.

Hãy tưởng tượng bạn ký hợp đồng mua 100 tấn gạo với giá 10 triệu đồng/tấn để bán lại kiếm lời. Nhưng ngay sau đó, Chính phủ đột ngột cấm xuất khẩu gạo do thiếu hụt trong nước, khiến giá gạo vọt lên 20 triệu đồng/tấn. Bạn vẫn có thể giao gạo, nhưng nếu giao với giá cũ, bạn lỗ to! Đây là sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản, vì tình hình thị trường thay đổi ngoài dự đoán, làm mục đích kinh doanh của bạn tan vỡ. Lúc này, luật cho phép bạn thương lượng lại hợp đồng, hoặc nếu không thỏa thuận được, tòa án can thiệp để điều chỉnh hay chấm dứt hợp đồng.

Điểm giống nhau: Đều là “cú twist” ngoài ý muốn

Nhìn qua, bạn sẽ thấy sự kiện bất khả kháng và sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản có một điểm chung: chúng đều là những “cú twist” bất ngờ, không ai lường trước khi ký hợp đồng. Cả hai đều nhằm bảo vệ các bên khỏi những rủi ro không đáng có, để không ai phải “gánh” hậu quả từ những chuyện ngoài tầm kiểm soát.

Chẳng hạn, trong vụ Covid-19, một công ty thuê mặt bằng mở nhà hàng có thể viện dẫn bất khả kháng để xin miễn tiền thuê khi phải đóng cửa hoàn toàn do giãn cách. Nhưng nếu nhà hàng vẫn mở bán mang về mà doanh thu giảm thê thảm vì khách ngại ra ngoài, họ có thể dùng lý do thay đổi hoàn cảnh cơ bản để xin giảm tiền thuê. Dù cách xử lý khác nhau, cả hai đều xuất phát từ tình huống bất ngờ: đại dịch.

Điểm khác nhau: “Không thể” hay “không nên”?

Tuy nhiên, hai khái niệm này không giống nhau hoàn toàn. Sự khác biệt lớn nhất nằm ở mức độ ảnh hưởnggiải pháp:

  • Sự kiện bất khả kháng: Là khi thực hiện hợp đồng trở nên bất khả thi. Như vụ hội thảo bị cấm vì giãn cách, không ai có thể làm gì để thay đổi tình hình. Giải pháp ở đây là miễn trách nhiệm, coi như “huề cả làng”.
  • Sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản: Là khi thực hiện hợp đồng vẫn có thể nhưng quá bất lợi hoặc không còn ý nghĩa. Như vụ giá gạo tăng vọt, bạn vẫn giao được hàng nhưng giao thì lỗ nặng. Giải pháp là thương lượng lại hoặc nhờ tòa án điều chỉnh, không phải miễn trách nhiệm hoàn toàn.

Ví dụ nữa cho rõ nha: Bạn thuê một chiếc thuyền để chở khách du lịch trên sông. Nếu bão lớn bất ngờ ập đến, nước ngập, không ai ra sông được – đó là bất khả kháng, bạn được miễn trách nhiệm. Nhưng nếu nước sông đột nhiên cạn bất thường do hạn hán, thuyền vẫn chạy được nhưng khách không muốn đi vì cảnh xấu – đó là thay đổi hoàn cảnh cơ bản, bạn có thể xin điều chỉnh hợp đồng thuê thuyền.

Mối quan hệ: Bổ sung hay chồng lấn?

Vậy mối quan hệ giữa hai khái niệm này là gì? Chúng không đối lập mà bổ sung cho nhau, như hai mặt của một đồng xu vậy. Sự kiện bất khả kháng thường là “cấp độ cao” hơn, khi hoàn cảnh không chỉ thay đổi mà còn ngăn cản hoàn toàn việc thực hiện hợp đồng. Trong khi đó, sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản là “cấp độ nhẹ” hơn, khi hợp đồng vẫn khả thi nhưng không còn công bằng.

Tuy nhiên, đôi khi ranh giới giữa chúng khá mong manh, dễ gây nhầm lẫn. Chẳng hạn, trong vụ Covid-19, nếu một bên cho rằng giãn cách là bất khả kháng (vì không thể mở cửa hàng), bên kia có thể lập luận đó chỉ là thay đổi hoàn cảnh cơ bản (vì vẫn bán online được). Tòa án sẽ xem xét cụ thể: nếu việc thực hiện hợp đồng hoàn toàn bất khả thi, đó là bất khả kháng; nếu chỉ bất lợi hơn, đó là thay đổi hoàn cảnh. Điều này đòi hỏi người áp dụng luật – từ luật sư đến thẩm phán – phải linh hoạt và hiểu rõ bản chất hợp đồng.

Ứng dụng thực tế: Hiểu để không “đứt gánh”

Hiểu rõ hai khái niệm này rất quan trọng, nhất là trong bối cảnh Việt Nam thường xuyên đối mặt với thiên tai, dịch bệnh, hay biến động kinh tế. Khi ký hợp đồng, bạn nên thêm điều khoản về bất khả kháng (như “nếu có bão, lũ, dịch bệnh, hai bên được miễn trách nhiệm”) và thay đổi hoàn cảnh (như “nếu giá thị trường biến động quá 30%, hai bên sẽ phải thương lượng lại”). Điều này giúp giảm rủi ro và tránh tranh chấp sau này.

Ví dụ, một doanh nghiệp nhập khẩu trái cây ký hợp đồng mua container cam từ Mỹ. Nếu bão lớn làm tàu không cập cảng được – bất khả kháng, họ được miễn trách nhiệm. Nhưng nếu thuế nhập khẩu đột ngột tăng từ 50%, khiến bán cam không còn lời – thay đổi hoàn cảnh cơ bản, họ có thể đề nghị điều chỉnh giá mua.

Luật là “cái phao” khi đời đổi thay

Sự kiện bất khả kháng và sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản là hai “cái phao” mà pháp luật Việt Nam đưa ra để cứu hợp đồng khỏi những cú sốc bất ngờ. Chúng không mâu thuẫn mà hỗ trợ nhau, giúp các bên vượt qua khó khăn một cách công bằng. Dù bạn là sinh viên luật, luật sư, hay chỉ là người ký hợp đồng, hiểu hai khái niệm này sẽ giúp bạn linh hoạt hơn khi cuộc sống “đổi kịch bản”. Vì trong thế giới pháp luật, không phải lúc nào mọi thứ cũng đi đúng kế hoạch – nhưng luật luôn có cách để giữ mọi thứ cân bằng!

Tác giả: Hà Mạnh Tú

Luật sư cấp cao Công ty TNHH Công nghệ Huawei Việt Nam

THÔNG BÁO: TẠM DỪNG TIẾP NHẬN KHAI HẢI QUAN TỪ 23H00 NGÀY 14/3/2025 ĐẾN 05H00 NGÀY 15/3/2025

Cục Hải quan – Bộ Tài chính vừa ban hành Thông báo số 130/CHQ-CNTT ngày 13/3/2025, thông báo về việc tạm dừng tiếp nhận khai hải quan trong khoảng thời gian từ 23h00 ngày 14/3/2025 đến 05h00 ngày 15/3/2025.

Nguyên nhân tạm dừng tiếp nhận khai hải quan

Cục Hải quan đang triển khai hệ thống công nghệ thông tin (CNTT) mới, phù hợp với mô hình tổ chức được quy định tại Nghị định 29/2025/NĐ-CP của Chính phủ. Việc nâng cấp này nhằm cải thiện hiệu suất xử lý khai báo hải quan, tối ưu quy trình số hóa và nâng cao chất lượng phục vụ cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu.

Đối tượng bị ảnh hưởng & khuyến nghị cho doanh nghiệp

Các doanh nghiệp forwarder, logistics, xuất nhập khẩu cần đặc biệt lưu ý để tránh gián đoạn quy trình khai báo hàng hóa. Cục Hải quan khuyến nghị các đơn vị chủ động sắp xếp thời gian nộp tờ khai trước hoặc sau khung giờ nâng cấp hệ thống để đảm bảo tiến độ giao nhận hàng hóa.

Các đơn vị nhận thông báo chính thức

  • Kho bạc Nhà nước
  • Cục Thuế
  • Cục CNTT và Chuyển đổi số – Bộ Tài chính
  • Cảng vụ Đường thủy nội địa Hải Phòng
  • Các ngân hàng thương mại

Thông tin quan trọng này sẽ ảnh hưởng đến quá trình khai báo hải quan và thông quan hàng hóa. Forwarder, doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần theo dõi sát sao để chủ động điều chỉnh kế hoạch vận hành.

Nghị quyết 42 phiên bản nâng cấp: Cơ hội mới cho ngân hàng trong xử lý nợ xấu

Trong một hội nghị gần đây, Phó Thống đốc thường trực Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Đào Minh Tú cho biết, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý với đề xuất của NHNN về việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng năm 2024.

Một trong những nội dung quan trọng của dự thảo là việc luật hóa một số quy định từ Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Trước đó, Nghị quyết 42 đã được gia hạn đến hết năm 2023 và nay đã hết hiệu lực. Điểm đáng chú ý của nghị quyết này là cho phép các tổ chức tín dụng được quyền thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý nợ xấu.

Phiên bản nâng cấp của Nghị quyết 42, sau khi được luật hóa, sẽ mang lại cơ chế pháp lý chặt chẽ hơn, giúp ngân hàng có thêm quyền trong việc thu giữ, xử lý và phát mại tài sản bảo đảm. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình xử lý tài sản đã có quyết định từ tòa án và đang trong giai đoạn thi hành án.

Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho biết, dự kiến Chính phủ sẽ trình dự thảo lên Quốc hội trong kỳ họp tháng 5. Nếu chưa kịp, việc xem xét có thể chuyển sang kỳ họp vào tháng 9. Đây là tín hiệu tích cực cho các ngân hàng thương mại đang gặp khó khăn trong xử lý nợ xấu.

Hoàn thiện khung pháp lý để tháo gỡ khó khăn trong xử lý nợ xấu

NHNN, với vai trò là cơ quan soạn thảo, đã trình Chính phủ dự thảo từ đầu tháng 3. Theo NHNN, việc luật hóa Nghị quyết 42 sẽ góp phần hoàn thiện khung pháp lý trong xử lý nợ xấu, giúp tháo gỡ những vướng mắc hiện nay, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các tổ chức tín dụng và đơn vị xử lý nợ.

Một trong những trở ngại lớn nhất hiện nay là việc xử lý tài sản bảo đảm. Trong nhiều trường hợp, người nắm giữ tài sản không tự nguyện bàn giao, buộc tổ chức tín dụng phải tiến hành khởi kiện và chờ phán quyết từ tòa án, dẫn đến quá trình xử lý kéo dài. Hiện nay, pháp luật mới chỉ quy định quyền yêu cầu tòa án can thiệp khi tài sản không được bàn giao, nhưng chưa có quy định cụ thể về quyền thu giữ trực tiếp của bên nhận bảo đảm. Điều này gây nhiều khó khăn trong việc thực hiện thu giữ tài sản khi bên vay không hợp tác hoặc có hành vi trì hoãn.

Ngoài ra, một vấn đề khác là tài sản bảo đảm có thể bị kê biên để thi hành án cho các nghĩa vụ không liên quan đến khoản vay, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các tổ chức tín dụng và đơn vị xử lý nợ.

Dự thảo Luật sửa đổi đề xuất quy định rằng sau khi hoàn tất các thủ tục xác minh chứng cứ và đảm bảo không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án, cơ quan tố tụng có trách nhiệm hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự theo đề nghị của tổ chức tín dụng hoặc đơn vị xử lý nợ.

Tình hình nợ xấu và tác động của chính sách mới

Theo số liệu thống kê, tính đến cuối năm 2024, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng niêm yết giảm còn 1,92%, giảm 0,31% so với quý III/2024 nhưng vẫn cao hơn 0,42% so với giai đoạn trước năm 2020.

Báo cáo tài chính quý IV/2024 của các ngân hàng cho thấy, tổng nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) tại 25 ngân hàng niêm yết lên tới 118.915 tỷ đồng (tương đương khoảng 4,75 tỷ USD), tăng 39,3% so với đầu năm. Tuy nhiên, con số này chưa bao gồm dữ liệu từ LPBank và VIB do hai ngân hàng này chỉ công bố số liệu về nợ quá hạn mà không chi tiết theo từng nhóm nợ.

Với các ngân hàng đã công bố báo cáo, có thể thấy nợ nhóm 5 chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nợ xấu. Một số ngân hàng thậm chí ghi nhận tỷ lệ nợ nhóm 5 lên tới hơn 90% tổng nợ xấu (bao gồm nợ nhóm 3 đến nhóm 5).

Việc nâng cấp Nghị quyết 42 thành luật không chỉ giúp ngân hàng xử lý nhanh hơn các khoản nợ xấu mà còn cải thiện tính thanh khoản và khả năng xoay vòng vốn, tạo điều kiện để người dân và doanh nghiệp tiếp cận tín dụng với chi phí hợp lý hơn.

Tác động của việc luật hóa Nghị quyết 42 đến hệ thống ngân hàng

Việc chuyển hóa Nghị quyết 42 thành luật chính thức sẽ có nhiều tác động quan trọng đối với hệ thống ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế. Một trong những lợi ích lớn nhất là giúp đẩy nhanh tiến trình xử lý nợ xấu, qua đó cải thiện chất lượng tài sản và nâng cao năng lực tài chính của các tổ chức tín dụng.

Bên cạnh đó, việc quy định rõ quyền thu giữ tài sản bảo đảm sẽ giúp các ngân hàng giảm thiểu tình trạng nợ xấu tồn đọng kéo dài. Điều này không chỉ giúp tăng hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng mà còn tạo ra một môi trường tài chính minh bạch, lành mạnh hơn, từ đó khuyến khích dòng vốn luân chuyển hiệu quả hơn trong nền kinh tế.

Tuy nhiên, để quá trình thực thi đạt hiệu quả cao nhất, các tổ chức tín dụng cần có kế hoạch triển khai phù hợp, bao gồm việc phối hợp chặt chẽ với các cơ quan pháp lý, tòa án và cơ quan thi hành án để đảm bảo quá trình thu giữ và xử lý tài sản được thực hiện đúng pháp luật, tránh tranh chấp kéo dài.

Cơ hội và thách thức trong triển khai thực tế

Mặc dù việc luật hóa Nghị quyết 42 mang lại nhiều lợi ích, nhưng quá trình triển khai cũng sẽ đối mặt với không ít thách thức. Một trong những vấn đề đáng lo ngại là phản ứng từ các bên vay nợ khi ngân hàng được trao quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Nếu không có cơ chế giám sát chặt chẽ, có thể xảy ra tình trạng lạm dụng quyền lực hoặc vi phạm quyền lợi hợp pháp của người vay.

Bên cạnh đó, việc xử lý tài sản bảo đảm vẫn phải tuân thủ quy trình tố tụng và thi hành án, do đó các ngân hàng cần có chiến lược xử lý hợp lý để tránh gây xung đột pháp lý. Đặc biệt, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan, bao gồm ngân hàng, cơ quan pháp lý và khách hàng để đảm bảo quyền lợi của tất cả các bên được bảo vệ công bằng.

Ngoài ra, trong bối cảnh nền kinh tế vẫn đang chịu nhiều tác động từ biến động toàn cầu, các ngân hàng cần linh hoạt trong việc tái cơ cấu nợ và tìm kiếm các giải pháp xử lý phù hợp thay vì chỉ tập trung vào việc thu giữ tài sản. Việc kết hợp giữa các biện pháp thu hồi nợ hiệu quả và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp sẽ giúp giảm thiểu rủi ro, đồng thời duy trì sự ổn định của thị trường tài chính.

Kết luận

Việc luật hóa Nghị quyết 42 đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý về xử lý nợ xấu, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các ngân hàng trong việc thu hồi và xử lý tài sản bảo đảm. Nếu được triển khai đúng cách, chính sách này không chỉ giúp giảm áp lực nợ xấu trong hệ thống ngân hàng mà còn góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy dòng vốn luân chuyển hiệu quả hơn trong nền kinh tế.

Tuy nhiên, để đảm bảo tính khả thi trong thực tế, các ngân hàng và cơ quan quản lý cần có những biện pháp đồng bộ nhằm kiểm soát rủi ro, tránh lạm dụng quyền thu giữ tài sản và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan. Khi các vấn đề trên được giải quyết một cách hợp lý, việc luật hóa Nghị quyết 42 sẽ trở thành một giải pháp hiệu quả giúp hệ thống ngân hàng phát triển bền vững hơn trong tương lai.

Nguồn: tổng hợp

Nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng: Khi luật pháp và sự tử tế gặp nhau

Hợp đồng – nghe có vẻ khô khan, đúng không? Nhưng thực ra, nó là một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Từ việc thuê nhà, mua điện thoại trả góp, đến ký hợp đồng làm việc, tất cả đều xoay quanh những thỏa thuận được ghi trên giấy (hoặc đôi khi chỉ là lời nói). Nhưng bạn có bao giờ tự hỏi: điều gì khiến một hợp đồng không chỉ là một mớ chữ ký và điều khoản, mà còn là một mối quan hệ có thể vận hành trơn tru giữa các bên? Câu trả lời nằm ở một nguyên tắc tưởng chừng đơn giản nhưng lại vô cùng quan trọng: thiện chí.

Thiện chí trong thực hiện hợp đồng không phải là một khái niệm mơ hồ hay chỉ để làm đẹp văn bản pháp lý. Nó là một nguyên tắc được công nhận trong luật pháp của nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, và đóng vai trò như người giữ hòa khí để đảm bảo các bên không chỉ tuân thủ luật mà còn hành xử công bằng, hợp lý với nhau. Vậy thiện chí là gì, nó hoạt động ra sao, và tại sao nó lại quan trọng với những người như chúng ta – từ sinh viên luật đến người dân bình thường? Hãy cùng tìm hiểu nhé!

Thiện chí là gì mà nghe “cao siêu” thế?

Trước tiên, hãy tưởng tượng bạn ký hợp đồng thuê một căn hộ. Chủ nhà đồng ý cho bạn thuê với giá 5 triệu đồng mỗi tháng, nhưng trong hợp đồng không ghi rõ ai sẽ trả tiền sửa ống nước nếu nó hỏng. Một ngày không đẹp trời lắm, mà ống nước bị bục, nước tràn lênh láng. Bạn gọi cho chủ nhà, và họ bảo: “Hợp đồng không ghi là tôi phải sửa, nên cô/chú tự lo đi!”. Bạn sẽ cảm thấy thế nào? Bực mình, đúng không? Đây là lúc nguyên tắc thiện chí xuất hiện.

Trong pháp luật, thiện chí (thường được gọi là good faith trong hệ thống pháp luật Anh-Mỹ hoặc nguyên tắc trung thực, thiện chí ở Việt Nam) có nghĩa là các bên trong hợp đồng phải hành xử trung thực, công bằng và hợp lý với nhau, ngay cả khi hợp đồng không ghi rõ từng chi tiết. Nó không chỉ là việc làm đúng theo chữ viết, mà còn là tinh thần hợp tác để đạt được mục đích mà cả hai bên đã thỏa thuận ban đầu.

Ở Việt Nam, nguyên tắc này được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể tại khoản 3 Điều 3, khi nói rằng các bên phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực. Nói cách khác, thiện chí giống như một “luật bất thành văn” trong lòng luật thành văn, giúp lấp đầy những khoảng trống mà các điều khoản cụ thể không thể bao quát hết.

Thiện chí hoạt động như thế nào trong thực tế?

Quay lại câu chuyện ống nước hỏng. Nếu cả hai bên đều hành xử theo thiện chí, thay vì đẩy trách nhiệm qua lại, bạn và chủ nhà có thể ngồi xuống bàn bạc: “Ống nước hỏng do sử dụng lâu năm hay do tôi vô ý làm hỏng?”. Nếu là do thời gian, chủ nhà có thể chịu chi phí sửa chữa vì đó là trách nhiệm bảo trì tài sản. Nếu do bạn vô tình làm hỏng, bạn có thể đề nghị chia sẻ chi phí. Kết quả? Cả hai đều hài lòng, mối quan hệ thuê nhà vẫn tốt đẹp, và không ai phải kiện tụng, tranh cãi mất thời gian.

Trong thực tế, thiện chí còn xuất hiện trong nhiều tình huống phức tạp hơn. Chẳng hạn, bạn ký hợp đồng mua một lô hàng vải để may quần áo. Trong hợp đồng ghi rõ số lượng là 1000 mét vải, nhưng khi giao hàng, bên bán chỉ giao 950 mét vì “hết hàng”. Nếu không có thiện chí, bên bán có thể viện cớ “hợp đồng không nói rõ phải giao đủ ngay lập tức” để thoái thác. Nhưng nếu áp dụng thiện chí, họ sẽ thông báo trước, giải thích lý do, và tìm cách bù đắp – ví dụ giao thêm 50 mét sau hoặc giảm giá. Điều này không chỉ giữ uy tín mà còn tránh được tranh chấp.

Tại sao thiện chí lại quan trọng?

Đến đây, bạn có thể nghĩ: “Ừ, thiện chí nghe hay đấy, nhưng nếu ai cũng tốt thì cần gì luật?”. Thực tế không đơn giản vậy. Con người không phải lúc nào cũng hành xử tử tế tự nhiên, nhất là khi có lợi ích tiền bạc xen vào. Đó là lý do pháp luật cần đặt ra nguyên tắc này để nhắc nhở – và đôi khi ép buộc – các bên phải chơi đẹp.

Với sinh viên luật hay người hành nghề luật, hiểu về thiện chí giúp bạn nhìn sâu hơn vào cách luật không chỉ là “đúng hay sai” mà còn là “công bằng hay không”. Với người dân bình thường, nó là kim chỉ nam để biết mình có quyền đòi hỏi sự hợp lý từ đối tác, và ngược lại, cũng phải hành xử sao cho xứng đáng. Hơn nữa, trong một thế giới mà tranh chấp hợp đồng có thể kéo dài hàng năm trời ở tòa án, thiện chí giúp tiết kiệm thời gian, tiền bạc và cả sự bình yên trong tâm hồn.

Nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng: Khi luật pháp và sự tử tế gặp nhau

Thiện chí trong luật Việt Nam và cái nhìn quốc tế

Ở Việt Nam, nguyên tắc thiện chí không phải là điều gì mới mẻ. Như đã nhắc ở trên, Bộ luật Dân sự 2015 đã ghi nhận rõ ràng rằng mọi giao dịch dân sự – bao gồm hợp đồng – phải được thực hiện dựa trên sự trung thực và thiện chí. Nhưng bạn có biết không, khái niệm này không chỉ nằm trong luật Việt Nam mà còn phổ biến ở nhiều hệ thống pháp luật khác trên thế giới, mỗi nơi lại có cách áp dụng hơi khác nhau.

Ví dụ, trong hệ thống pháp luật Anh-Mỹ (Common Law), “good faith” thường được hiểu là hành xử trung thực và không lừa dối đối tác. Tuy nhiên, ở Mỹ, không phải bang nào cũng bắt buộc áp dụng thiện chí trong mọi hợp đồng – nó phụ thuộc vào loại hợp đồng và luật địa phương. Ngược lại, ở các nước theo hệ thống pháp luật dân sự (Civil Law) như Pháp hay Đức, thiện chí là một nguyên tắc cốt lõi, gần như “luật sống” trong mọi giao dịch. Bộ luật Dân sự Pháp thậm chí còn yêu cầu các bên phải đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng với tinh thần thiện chí, nếu không có thể bị coi là vi phạm.

Vậy Việt Nam thì sao? Chúng ta nằm ở hệ thống pháp luật dân sự, nên thiện chí được nhấn mạnh khá mạnh mẽ. Điều thú vị là luật Việt Nam không chỉ dừng ở việc yêu cầu các bên “tử tế” với nhau, mà còn gắn nó với văn hóa truyền thống. Chẳng hạn, câu “lời nói gói vàng” hay tinh thần “thuận mua vừa bán” trong dân gian cũng phản ánh phần nào ý nghĩa của thiện chí – làm ăn phải sòng phẳng, giữ chữ tín.

Khi thiện chí “cứu” hợp đồng khỏi tranh chấp

Bây giờ, hãy tưởng tượng một tình huống thực tế khác. Bạn là chủ một quán cà phê nhỏ, ký hợp đồng mua hạt cà phê từ một nhà cung cấp. Hợp đồng ghi rõ mỗi tháng giao 50kg cà phê rang xay, giá 200.000 đồng/kg. Nhưng giữa chừng, giá cà phê trên thị trường tăng vọt lên 300.000 đồng/kg vì mất mùa. Nhà cung cấp gọi bạn: “Tôi lỗ quá, giao tiếp thì không đủ vốn, mà ngừng giao thì vi phạm hợp đồng. Giờ tính sao?”. Nếu không có thiện chí, bạn có thể kiện họ ra tòa vì không giao đủ hàng. Nhưng nếu cả hai cùng thiện chí, bạn có thể đồng ý tăng giá tạm thời hoặc giảm số lượng giao hàng để họ không lỗ, đổi lại họ cam kết ưu đãi cho bạn khi thị trường ổn định. Kết quả là đôi bên cùng có lợi, không ai phải mất công chạy theo luật sư để thưa kiện lôi thôi.

Nhưng thiện chí có giới hạn không?

Đúng vậy, không phải lúc nào thiện chí cũng là “cây đũa thần” giải quyết mọi vấn đề. Nó không có nghĩa là bạn phải nhượng bộ vô điều kiện hay chấp nhận thiệt hại chỉ để giữ hòa khí. Thiện chí phải đi đôi với lẽ công bằng (Khoản 2 Điều 6). Nếu một bên cố tình lợi dụng thiện chí của bạn để trục lợi, bạn hoàn toàn có quyền bảo vệ mình, thậm chí đưa vụ việc ra tòa.

Chẳng hạn, quay lại vụ mua vải lúc nãy. Nếu bên bán liên tục giao thiếu hàng, viện đủ lý do mà không chịu khắc phục, thì thiện chí của bạn không bắt buộc phải kéo dài mãi. Lúc này, luật pháp sẽ đứng về phía bạn để đòi lại công bằng, dựa trên các điều khoản hợp đồng và nguyên tắc cơ bản của luật dân sự.

Thiện chí: Bài học cho tất cả chúng ta

Với sinh viên và người hành nghề luật, nguyên tắc thiện chí là một cánh cửa để hiểu sâu hơn về cách luật điều chỉnh hành vi con người, không chỉ qua chữ viết mà còn qua tinh thần. Bạn sẽ thấy rằng luật không phải lúc nào cũng cứng nhắc, mà đôi khi rất linh hoạt để thích nghi với cuộc sống. Còn với những người không học luật, thiện chí nhắc nhở chúng ta rằng trong bất kỳ giao dịch nào – dù là mua bán nhỏ lẻ hay hợp đồng lớn – cách hành xử tử tế và hợp lý luôn mang lại giá trị lâu dài.

Hãy thử nghĩ xem: Nếu bạn ký hợp đồng với một người bạn thân, bạn sẽ muốn cả hai đều thoải mái và vui vẻ, đúng không? Thiện chí chính là cách để biến điều đó thành hiện thực, ngay cả khi đối tác của bạn là người xa lạ. Nó không chỉ giúp hợp đồng được thực hiện suôn sẻ, mà còn xây dựng niềm tin – thứ quý hơn cả tiền bạc trong bất kỳ mối quan hệ nào.

Nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng: Khi luật pháp và sự tử tế gặp nhau

Thiện chí trong những câu chuyện đời thường

Để hiểu rõ hơn về thiện chí, hãy nhìn vào một vài tình huống gần gũi quanh ta. Giả sử bạn đặt một chiếc bánh sinh nhật từ một tiệm bánh nhỏ. Hợp đồng miệng là 500.000 đồng cho một chiếc bánh kem socola giao đúng ngày sinh nhật. Nhưng đến ngày giao, tiệm bánh gọi bạn: “Do lò hỏng bất ngờ, tụi mình chỉ làm được bánh vani thôi. Nếu bạn không lấy, tụi mình hoàn tiền, còn nếu lấy thì giảm giá còn 400.000 đồng.” Bạn đồng ý lấy bánh vani vì thấy họ đã cố gắng và trung thực thông báo. Đó chính là thiện chí từ cả hai phía: tiệm bánh không giấu giếm, còn bạn linh hoạt chấp nhận giải pháp thay vì nổi cáu và mất thời gian, công sức đi tìm bánh ở tiệm khác.

Một câu chuyện khác từ góc độ doanh nghiệp: Một công ty ký hợp đồng thuê mặt bằng để mở cửa hàng. Dịch Covid-19 ập đến, cửa hàng phải đóng cửa, không có doanh thu để trả tiền thuê. Bên cho thuê, thay vì đòi tiền đúng hạn hoặc đuổi công ty ra ngoài, đồng ý giảm 30% tiền thuê trong 3 tháng, với điều kiện công ty cam kết tiếp tục thuê dài hạn sau dịch. Kết quả là cả hai cùng vượt qua khó khăn, không ai phải kiện tụng. Thiện chí ở đây không chỉ cứu vãn hợp đồng mà còn cứu luôn mối quan hệ kinh doanh.

Những câu chuyện như vậy cho thấy thiện chí không phải điều gì xa vời. Nó hiện diện trong cách chúng ta giải quyết vấn đề, từ những giao dịch nhỏ lẻ đến hợp đồng triệu đô. Quan trọng là cả hai bên đều sẵn lòng đặt mình vào vị trí của nhau một chút, thay vì chỉ chăm chăm bảo vệ lợi ích cá nhân.

Làm sao để áp dụng thiện chí trong đời sống?

Nếu bạn là sinh viên luật hay chỉ đơn giản là người quan tâm đến pháp luật, có thể bạn đang tự hỏi: “Làm thế nào để tôi áp dụng thiện chí mà không bị thiệt?”. Đừng lo, đây là vài gợi ý đơn giản:

  1. Giao tiếp rõ ràng: Khi ký hợp đồng, hãy trao đổi kỹ với đối tác về những tình huống có thể xảy ra. Nếu có vấn đề, thông báo sớm để cùng tìm cách giải quyết, thay vì im lặng rồi đổ lỗi.
  2. Linh hoạt nhưng có giới hạn: Thiện chí không có nghĩa là nhượng bộ hết. Hãy sẵn sàng thỏa hiệp khi cần, nhưng đừng để đối phương lợi dụng lòng tốt của bạn.
  3. Hiểu luật để tự bảo vệ: Biết rằng thiện chí được pháp luật công nhận, nên nếu đối tác không chơi đẹp, bạn có thể dựa vào pháp luật để đòi quyền lợi.

Ví dụ, nếu bạn thuê xe máy và chủ xe giao xe bị xước dù đã hứa là xe mới, bạn có thể nhẹ nhàng yêu cầu giảm giá hoặc đổi xe. Nếu họ từ chối và cố tình gây khó dễ, thiện chí của bạn đã hết, và bạn có quyền khiếu nại dựa trên thỏa thuận ban đầu.

Kết luận: Thiện chí – chiếc cầu nối giữa luật và đời

Cuối cùng, nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng không chỉ là một điều khoản pháp lý khô khan. Nó là minh chứng rằng luật pháp không chỉ tồn tại để trừng phạt hay ép buộc, mà còn để khuyến khích con người đối xử tử tế với nhau. Với sinh viên và người hành nghề luật, đây là bài học về cách nhìn luật từ góc độ con người, không chỉ là văn bản. Với những người bình thường không học luật, nó nhắc nhở rằng một chút trung thực và linh hoạt có thể biến một giao dịch căng thẳng thành một trải nghiệm dễ chịu.

Hãy thử nghĩ mà xem: Nếu ai cũng mang tinh thần thiện chí vào các mối quan hệ, từ việc mua bán, thuê mướn, đến làm ăn lớn, cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn biết bao. Lần tới khi bạn ký một hợp đồng hay thỏa thuận điều gì, đừng chỉ đọc kỹ điều khoản – hãy nhớ thêm một điều: hãy đối xử với đối phương như cách bạn muốn được đối xử. Đó chính là tinh thần của thiện chí, và cũng là cách để luật pháp trở thành người bạn đồng hành, mà không phải kẻ phán xét.

Tác giả: Hà Mạnh Tú

Luật sư cấp cao Công ty TNHH Công nghệ Huawei Việt Nam

Áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại đối với sản phẩm đường mía (AC02.AD13-AS01)

Giới thiệu tổng quan

Bộ Công Thương đã áp dụng biện pháp chống lẩn tránh phòng vệ thương mại (PVTM), bao gồm chống bán phá giá (CBPG) và chống trợ cấp (CTC), đối với sản phẩm đường mía nhập khẩu từ Lào, Campuchia, Indonesia, Malaysia, và Myanmar. Đây là biện pháp nhằm ngăn chặn tình trạng lẩn tránh các biện pháp phòng vệ trước đó, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh cho ngành sản xuất trong nước. Biện pháp này chính thức có hiệu lực từ ngày 9/8/2022 và dự kiến kéo dài đến ngày 15/6/2026, trừ trường hợp có thay đổi theo quy định pháp luật.

1. Thông tin vụ việc

1.1. Bên yêu cầu

  • Công ty Cổ phần Mía đường Sơn Dương
  • Công ty Cổ phần Mía đường Sơn La
  • Công ty Cổ phần TNHH Công nghiệp KCP Việt Nam
  • Công ty Cổ phần Mía đường Cần Thơ
  • Công ty Cổ phần Mía đường 333
  • Công ty Cổ phần Mía đường Sóc Trăng

1.2. Hàng hóa bị áp dụng biện pháp chống lẩn tránh PVTM

  • Tên khoa học: Đường sacarose (sucrose)
  • Tên gọi thông thường: Đường cát, đường mía, đường kính, đường thô, đường trắng, đường tinh luyện, đường RE, đường RS
  • Phân loại mã HS: 1701.13.00, 1701.14.00, 1701.91.00, 1701.99.10, 1701.99.90, 1702.90.91
    (Danh sách mã HS có thể được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tế)

1.3. Xuất xứ hàng hóa bị áp dụng biện pháp PVTM

  • Campuchia, Lào, Malaysia, Myanmar, Indonesia

2. Mức thuế và thời gian áp dụng biện pháp

Mức thuế CBPG và CTC

Bảng 1 (AC02.AD13-AS01): Mức thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp (áp dụng từ 9/8/2022 đến 15/6/2026)

Quốc gia

Thuế CBPG

Thuế CTC

Campuchia

42,99%

4,65%

Indonesia

42,99%

4,65%

Lào

42,99%

4,65%

Malaysia

42,99%

4,65%

Myanmar

42,99%

4,65%

Loại trừ áp dụng biện pháp PVTM đối với:

Hàng hóa được sản xuất bởi các công ty sau không thuộc phạm vi áp dụng biện pháp:

  • Kampong Speu Sugar Co., Ltd.
  • Kasekam Youveakchun Svay Rieng Co., Ltd.
  • PT. Kebun Tebu Mas
  • Mitr Lao Sugar Company Limited
  • Savannakhet Sugar Corporation
  • TTC Attapeu Sugar Cane Sole Co., LTD
  • Than Daung OO Company Limited
  • Ngwe Yi Pale Sugar Company Limited

Thời hạn áp dụng

  • Thời gian hiệu lực: Từ 9/8/2022 đến 15/6/2026
  • Gia hạn và rà soát: Có thể thay đổi theo các quyết định bổ sung của Bộ trưởng Bộ Công Thương.

3. Tình trạng vụ việc hiện nay

  • Hiện tại: Biện pháp chống lẩn tránh biện pháp PVTM đang được áp dụng đối với hàng hóa từ các quốc gia nêu trên.

4. Văn bản pháp luật liên quan đến vụ việc

  • Quyết định 1407/QĐ-BCT năm 2024: Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới.
  • Quyết định 494/QĐ-BCT năm 2024: Gia hạn thời hạn rà soát nhà xuất khẩu mới.

Các sự kiện đáng chú ý

Thời gian

Sự kiện

21/09/2021

Khởi xướng điều tra

01/08/2022

Ban hành quyết định áp dụng biện pháp chống lẩn tránh PVTM

28/03/2023

Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới

11/12/2023

Ban hành quyết định rà soát nhà xuất khẩu mới

11/03/2024

Gia hạn thời hạn rà soát nhà xuất khẩu mới

10/06/2024

Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới

Xem thêm: Toàn cảnh áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại tại Việt Nam – 29 vụ việc từ 2009 đến 2024

Ra mắt tool tính Thuế chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam

Kính chào Quý khách hàng,

Caselaw Việt Nam trân trọng thông báo tính năng mới: Tính thuế Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam tại https://caselaw.vn/tinh-thue-chong-ban-pha-gia.

Tính năng Tính thuế Chống bán phá giá sẽ là công cụ hữu ích giúp cho các nhà xuất khẩu nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam thực hiện các công việc vốn trước đây đòi hỏi nhiều thời gian để nghiên cứu quy định pháp luật và tham vấn luật sư:

(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam; 

(ii) Biết được mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và Tính số tiền thuế Chống bán phá giá;

(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS;

Theo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 ngày 06/04/2016 của Quốc Hội, Thuế chống bán phá giá là thuế nhập khẩu bổ sung được áp dụng trong trường hợp hàng hóa bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong. 

Trang dữ liệu thông tin pháp lý về Mã HS của Caselaw Việt Nam cập nhật các mã HS hàng hóa bị áp thuế chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam. Tính đến tháng 12/2020, Việt Nam đã áp thuế chống bán phá giá đối 7 nhóm sản phẩm với 74 mã HS hàng hóa có xuất xứ từ 6 quốc gia: Trung Quốc, Đài Loan, Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan.

(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam

Để biết mã HS của hàng hóa nhập khẩu có bị đánh thuế Chống bán phá giá hay không, Quý khách hàng truy cập trang Tính Thuế chống bán phá giá. Sau đó nhập mã HS 8 số và bấm kiểm tra.
 

Kết quả kiểm tra sau khi nhập mã HS 8 số:

(ii) Xem mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và tính số tiền thuế Chống bán phá giá:

Dữ liệu tính thuế và công thức tính thuế Chống bán phá giá được các chuyên gia cố vấn của Caselaw Việt Nam tổng hợp chính xác dựa trên các quyết định về áp thuế chống bán phá giá của Bộ Công thương. Sau khi nhập đủ các thông tin vào các ô dữ liệu và bấm nút tính thuế, bạn sẽ biết được chính xác số thuế Chống bán phá giá phải nộp. Kết quả hiển thị đi kèm với các thông tin về: mức thuế suất, thời gian áp thuế, quốc gia bị áp thuế và các công ty xuất khẩu. 

(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS:

Tại trang thông chi tiết của mỗi mã HS, ví dụ như mã 29224220, ngoài thông tin về các loại thuế suất như: thuế VAT, thuế nhập khẩu ưu đãi, thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các hiệp định FTA(s), Quý khách hàng sẽ được xem thêm thuế Chống bán phá giá theo từng thời gian, quốc gia xuất khẩu, công ty xuất khẩu.

Caselaw Việt Nam luôn mong muốn mang đến cho Quý khách hàng các tiện ích nhằm hỗ trợ hiệu quả cho công việc. 

Chúng tôi rất vui khi được đồng hành cùng Quý khách hàng.

Trân trọng,

Caselaw Việt Nam Team

7 mẫu hợp đồng được sử dụng để thực thi quyền sử dụng đất (đặt cọc, góp vốn, cho mượn, chuyển nhượng, thế chấp, hợp tác kinh doanh...)

1. Thỏa Thuận Đặt Cọc Mua Đất Nông Nghiệp

2. Hợp Đồng Hợp Tác Kinh Doanh Góp Vốn Bằng Giá Trị Quyền Sử Dụng Đất

3. Hợp Đồng Chuyển Nhượng Quyền Sử Dụng Đất Và Tài Sản Gắn Liền Trên Đất (Xây Dựng Cửa Hàng Xăng Dầu)

4. Hợp Đồng Cho Mượn Đất

5. HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở (MS 01)

6. HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC Chuyển nhượng quyền sử dụng đất (MS 01)

7. HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP Quyền sử dụng đất và căn hộ (MS 01)

LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP CHO LUẬT SƯ: Khác biệt giữa làm việc tại HÃNG LUẬT và PHÁP CHẾ? (Phần 2/2)

Tác giả: Luật sư Trịnh Ngọc Tuấn
Facebook: The skilled lawyers - Kỹ năng luật sưhttps://www.facebook.com/theskilledlawyers/   

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

(Những bạn nào đã đọc phần 1 có thể đọc tiếp trên post này, những bạn nào chưa đọc có thể xem phần 1 tại: https://caselaw.vn/phap-che/lua-chon-nghe-nghiep-cho-luat-su-khac-biet-giua-lam-viec-tai-hang-luat-va-phap-che-phan-1)

6. THĂNG TIẾN

Trong hãng luật sẽ có nhiều thứ bậc để thăng tiến: trợ lý luật sư (paralegal/legal assistant), luật sư cấp dưới (junior associate), luật sư (associate), luật sư cấp cao (senior associate), luật sư thành viên (partner), luật sư điều hành (managing partner)…Bên cạnh đó con đường cấp bậc cũng khá hấp dẫn nếu bạn thể hiện tốt bởi đó là môi trường dễ dàng hơn để đo đếm được hiệu quả kinh tế bạn mang lại cho văn phòng. 

Phần lớn các phòng pháp chế thường được cấu trúc thành hai loại vị trí, điều hành và nhân viên. Bạn hiểu việc thăng tiến sẽ như thế nào rồi chứ. Đừng nhầm lẫn rằng tôi nói bạn sẽ không có cơ hội để được thăng tiến, tôi chỉ muốn nói là nó ít hơn so với trong hãng luật. Về cơ bản, đó là một cái thang ít bậc. Và môi trường pháp chế cũng khó đong đếm hiệu quả của từng nhân viên hơn.

7. CHUYỂN ĐỔI MÔI TRƯỜNG

Việc một luật sư tại hãng luật chưa hề có kinh nghiệm pháp chế chuyển sang làm tại ban pháp chế sẽ dễ dàng hơn nhiều so với điều ngược lại. Tại sao? Lý do như đã nói đến ở trên, giờ làm việc, phong cách làm việc, chuyên môn…v.v. Tổng quát lại thì những kinh nghiệm có được tại hãng luật có thể áp dụng khi chuyển sang môi trường pháp chế một cách dễ dàng hơn. Điều này không có nghĩa là bạn không thể vào một hãng luật sau một thời gian dài chỉ làm pháp chế. Nó chỉ có nghĩa là bạn sẽ gặp nhiều khó khăn để chứng tỏ sự xứng đáng của mình với nhà tuyển dụng của hãng luật, những người thường sẽ ưu tiên cho các ứng viên có kinh nghiệm làm việc tại hãng luật tương tự.

8. DANH TIẾNG

Bạn thường nhìn thấy tên ai trên truyền thông, báo chí, bảng xếp hạng các luật sư như Legal 500, chambers and partners, Asia law, who is who legal, hay IRFL 1000 …v.v Đúng vậy, đó là các luật sư tại các hãng dẫn đầu và những luật sư có văn phòng riêng. Vậy, có phải vì những luật sư đó có chuyên môn vượt trội so với những đồng nghiệp làm pháp chế? Không, họ là những luật sư hàng đầu nhưng bạn không nên tự động nghĩ rằng chuyên môn của họ tốt hơn tất cả những luật sư pháp chế nội bộ khác. Nếu họ nhận vị trí của một TBPC, họ sẽ vấn gặp rất nhiều khó khăn như họ chưa từng gặp. 

Một điều đương nhiên, một hãng luật, văn phòng luật vẫn là một công ty, một thực thể kinh doanh. Nó cũng cần phải marketing, quảng cáo như tất cả các loại công ty khác. Chắc bạn hiểu tầm quan trọng của marketing trong thời đại này rồi. Như một điều tất yếu, khi một hãng luật xây dựng danh tiếng, các luật sư của họ sẽ có nhiều cơ hội hơn để xuất hiện trên tạp chí, truyền thông và danh sách bảng xếp hạng luật sư. 

Trong khi đó, các công ty mong muốn luật sư nội bộ chỉ làm việc cho riêng mình. Hãy tưởng tượng bạn sở hữu một công ty và có luật sư riêng, bạn sẽ mong muốn luật sư đó dành toàn bộ thời gian và nỗ lực để phục vụ công ty của bạn hay luật sư đó vẫn cung cấp dịch vụ cho những người khác, đó là còn chưa tính đến tư vấn cho các đối thủ kinh doanh của bạn? Rất nhiều công việc TBPC sẽ gắn với một hạn chế công việc kinh doanh riêng. Đúng vậy, đối với TBPC (mức độ cao nhất của luật sư nội bộ), họ ít khi xuất hiện trên tạp chí hay bảng xếp hạng các luật sư. 

Vì vậy, nếu bạn muốn trở thành luật sư “có tiếng”, làm việc trong hãng luật sẽ tốt hơn cho bạn. Nếu bạn làm việc trong phòng pháp chế, đừng ngây ngô nghĩ rằng nếu bạn sở hữu vốn kiến thức uyên bác và kỹ năng xuất sắc thì cộng đồng sẽ tự động biết đến bạn. Bạn phải bước ra sân khấu và thể hiện cho mọi người xung quang bạn khá như thế nào. Khi bạn làm cho một hãng luật, khách hàng và các hãng luật khác sẽ là khán giả cho sân khấu đó, và nếu bạn làm tốt, sẽ có nhiều người biết đến bạn hơn.

9. PARTNER so với TBPC

Tôi không biết nên dùng từ gì gọn gàng trong tiếng Việt để chỉ “Partner” (có thể dịch là “luật sư thành viên”), vì vậy nên xin giữ nguyên từ này cho nó gọn. Một partner tức là một luật sư có vốn sở hữu trong hãng luật. Thường thường thì một hãng luật sẽ có nhiều partner. 

Nếu bạn vẫn đọc phần này thì xin cảm ơn sự kiên nhẫn của bạn! Và tôi đoán rằng bạn có thể là một người tham vọng hoặc khá tò mò…Thành thật mà nói, tôi chưa bao giờ trải qua hai vị trí cao nhất này và nó là xa vời. Nhưng tôi đã làm việc rất gần với những người nắm giữ vị trí này nên tôi có thể tiết lộ một số điều mà tôi biết. 

Cả hai đều là những vị trí rất thử thách! Là TBPC có nghĩa là bạn chịu trách nhiệm toàn bộ cho hoạt động của phòng pháp chế và các vấn đề pháp lý. Bạn sẽ phải làm việc rất gần với các lãnh đạo công ty và chịu sự ảnh hưởng bởi phong cách của họ. Nếu sếp của bạn làm việc ngày đêm thì bạn cũng phải sẵn sàng ngày đêm. Cho dù bạn có là một luật sư xuất sắc thì một điều kiện tiên quyết để bạn có thể gắn bó và trụ được lâu dài như một TBPC đó là bạn phải rất “hợp” với phong cách của lãnh đạo công ty. 

Nói về việc làm partner. Ok, bạn bắt đầu là một trợ lý luật sư, bạn làm tốt và tiến bộ, bạn trở thành một luật sư cấp cao thành công và gắn bó lâu dài với hãng luật. Tiếp theo thế nào? Hãng luật sẽ đề xuất bạn trở thành partner để ghi nhận những cống hiến của bạn. Vâng, trở thành một partner, nhiều quyền lực hơn khiến cuộc sống trở nên dễ dàng… Đó là một phần thôi, thực tế khác như vậy. Đây là một điều đã từng làm tôi rất ngạc nhiên: tôi biết và đã nghe về một số tình huống mà các luật sư Việt Nam/hay cả luật sư nước ngoài của các công ty luật nước ngoài từ chối với đề nghị trở thành partner của hãng luật mà mình đang làm việc. Vâng, đó là sự thật. Tại sao? Đề nghị trở thành partner thường gắn với điều kiện về mua phần vốn kèm theo các cam kết hiệu quả khác, điều này dẫn đến sự sụt giảm về thu nhập trong giai đoạn đầu. Ngoài ra, trở thành partner, bạn không còn đơn thuần chỉ là một luật sư nữa, bạn là một doanh nhân điều hành dịch vụ pháp lý. Đó không chỉ đơn giản là một món quà mà còn là một thử thách. 

Công việc thử thách gắn liền với phần thưởng xứng đáng. Một anh bạn luật sư của tôi từng tiết lộ anh nhận được đề nghị làm luật sư nội bộ với mức lương tháng 10K USD từ một tập đoàn trong nước! Một con số thật lớn, và đó là con số lớn nhất tôi được biết cho vị trí luật sư nội bộ. Con số trung bình thấp hơn nhiều, bạn có thể lên Vietnamwork để kiểm tra. Tôi không biết các partner thu nhập bao nhiêu nhưng tôi đoán rằng partner sẽ thu được nhiều hơn. Bạn có thể xem mục 2 - Lương để biết cách tìm hiểu so sánh lương. Ngoài khoản lương ra, partner sẽ có cổ tức/lợi nhuận từ hãng luật nhưng TBPC cũng có thể nhận thưởng và cổ phiếu thưởng từ công ty của họ, điều này làm khoảng cách nhỏ lại. 

Hy vọng qua bài này bạn sẽ có được một cái nhìn nhất định về sự khác biệt giữa hai môi trường phổ biến của nghề luật sư hiện nay. Không có lựa chọn nào là hoàn hảo, tuy nhiên sẽ luôn có cái phù hợp hơn cho một mục tiêu nào đó của bạn.

Chúc may mắn!