cơ sở dữ liệu pháp lý

Tuyển tập 20 dự thảo án lệ năm 2018

1.  (Dự thảo án lệ số 01 năm 2018 về Hình sự) về tình tiết phạm tội “có tổ chức” trong tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”:

Các bị cáo cố ý đưa ra những thông tin không đúng sự thật và thực hiện nhiều hành vi lừa dối khác để bị hại tin đó là sự thật và đưa tiền cho mình nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của bị hại. Các bị cáo tích cực thực hiện hành vi phạm tội với vai trò là người thực hành. Trường hợp này, các bị cáo phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với tình tiết định khung là “Có tổ chức”.

2.  (Dự thảo án lệ số 02 năm 2018 về Hình sự) Về tình tiết “giết nhiều người”, “có tính chất côn đồ” trong tội “Giết người”

Bị cáo bị đuổi đánh nên sử dụng dao khua khoắng loạn xạ với mục đích ngăn những người khác tiếp cận mình gây tử vong cho một người và gây thương tích cho một người khác; hành vi của bị cáo không xuất phát từ một lý do vô cớ hay vì một mâu thuẫn nhỏ nhặt và không có ý định tước đoạt tính mạng của bị hại. Trường hợp này, bị cáo chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người” mà không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người” với tình tiết định khung là “giết nhiều người” và “có tính chất côn đồ”.

3.  (Dự thảo án lệ số 03 năm 2018 về Hình sự) Về không cho hưởng án treo vì “ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” trong tội “Vi phạm các quy định về khai thác tài nguyên”

Bị cáo bị Tòa án xử phạt 01 năm tù về tội “Vi phạm các quy định về khai thác tài nguyên”, mặc dù có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 nhưng tình hình tội phạm “Vi phạm các quy định về khai thác tài nguyên” đang gia tăng, có diễn biến phức tạp, chính quyền và các cơ quan bảo vệ pháp luật đang tích cực đấu tranh nhằm bảo vệ tài nguyên của đất nước. Trường hợp này, Tòa án không cho bị cáo hưởng án 

4.  (Dự thảo án lệ số 04 năm 2018 về Hình sự) Về hành vi phạm tội “Cố ý gây thương tích”

Bị cáo và bị hại đã xảy ra xô xát, đánh nhau. Bị hại dùng hung khí nguy hiểm tấn công bị cáo trước, bị cáo chống trả làm văng hung khí khỏi tay bị hại. Mặc dù đã được người khác ngăn cản nhưng bị cáo và bị hại vẫn xông vào đánh nhau bằng chân, tay. Trong lúc vật lộn, bị cáo gây thương tích cho bị hại. Trường hợp này, bị cáo phải chịu trách nhiệm về “Tội cố ý gây thương tích”

5.  (Dự thảo án lệ số 05 năm 2018 về Hình sự) Về áp dụng tình tiết tăng nặng “Có tính chất côn đồ” đối với người giúp sức trong tội “Giết người

Người giúp sức mặc dù không có ý thức tước đoạt tính mạng của bị hại nhưng chấp nhận, để mặc hậu quả xảy ra. Người thực hành bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Có tính chất côn đồ”. Trường hợp này, người giúp sức không bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Có tính chất côn đồ”.

6.  (Dự thảo án lệ số 06 năm 2018 về Hình sự) Về khắc phục hậu quả trong “Tội tham ô tài sản”

Bị cáo dùng giấy tờ giả, xe máy mang biển kiểm soát giả đi cầm cố nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, việc chưa chiếm đoạt được tài sản và không thực hiện được tội phạm đến cùng do nguyên nhân ngoài ý muốn của bị cáo. Trường hợp này, Tòa án phải xác định hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” nhưng ở giai đoạn phạm tội chưa 

7.  (Dự thảo án lệ số 07 năm 2018 về Hình sự) Về khắc phục hậu quả trong “Tội tham ô tài sản”

Bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở trong quản lý của Ngân hàng, nhiều lần làm các thủ tục để rút tiền nhằm mục đích chiếm đoạt tiền của Ngân hàng. Hành vi của bị cáo cấu thành “Tội tham ô tài sản” mặc dù đã khắc phục một phần số tiền đã chiếm đoạt và Ngân hàng đã thu hồi được tiền. Trường hợp này, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về “Tội tham ô tài sản” trên toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt.

8.  (Dự thảo án lệ số 08 năm 2018 về Hình sự) Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và không cho hưởng án treo trong “Tội dâm ô đối với trẻ em

Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định bị cáo bị bệnh cao huyết áp, Parkison nên có ảnh hưởng đến nhận thức, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm n khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999: “Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình”, là không có căn cứ pháp luật

9.  (Dự thảo án lệ số 09 năm 2018 về Hình sự) Về hành vi phạm tội “Cố ý gây thương tích” trong khi thi hành công vụ

Bị cáo là công an xã sử dụng vũ lực trong lúc lấy lời khai của bị hại, việc bị cáo sử dụng vũ lực không thuộc trường hợp được sử dụng vũ lực trong khi thi hành công vụ theo quy định của pháp luật. Việc bị hại chết là nằm ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo. Trường hợp này, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về “Tội cố ý gây thương tích” mà không phải chịu trách nhiệm hình sự về “Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ

10.  (Dự thảo án lệ số 10 năm 2018 về Hình sự) Về hành vi phạm tội “Không tố giác tội phạm”

Tòa án cấp phúc thẩm xác định hành vi của bị cáo đã phạm tội “Không tố giác tội phạm" và áp dụng khoản 1 Điều 314 Bộ luật hình sự năm 1999 để xét xử đối với bị cáo là không có căn cứ

11. (Dự thảo án lệ số 11 năm 2018 về Hình sự) Về không cho hưởng án treo vì “ảnh hưởng xấu đến môi trường, sinh thái” trong tội “Vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm, được ưu tiên bảo vệ

Các bị cáo đã có hành vi mua bán trái phép động vật thuộc danh mục các loài nguy cấp quý hiếm được ưu tiên bảo vệ với số lượng lớn, đều thuộc phụ lục IB danh mục loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ theo Nghị định 160/2013/NĐ-CP ngày 12-11-2013 của Chính phủ. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến việc bảo vệ môi trường sinh thái. Các bị cáo phạm tội thuộc khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt tù từ sáu tháng đến ba năm

12.  (Dự thảo án lệ số 12 năm 2018 về Hình sự) Về hành vi giết người đang thi hành công vụ

Trường hợp này, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về “Tội Giết người” với tình tiết định khung là “Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân”.

13.  (Dự thảo án lệ số 13 năm 2018 về Hình sự) Về hành vi phạm tội “Vô ý làm chết người”

Bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn, cùng một phe trong lúc đánh nhau; bị cáo khua súng chống đỡ sự tấn công của người khác, trong lúc chống đỡ bị cáo vô tình làm súng nổ mà không có ý thức nhằm vào người khác để bắn. Bị hại chết là ngoài ý muốn chủ quan bị 

14.  (Dự thảo án lệ số 14 năm 2018 về Dân sự) Về di sản chuyển thành tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân

Trường hợp này, Tòa án phải xác định nhà, đất không còn là di sản thừa kế mà đã chuyển thành quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của các cá nhân và giải quyết bác yêu cầu chia di sản thừa kế là nhà, đất.

15.  (Dự thảo án lệ số 15 năm 2018 về Dân sự) Về phạt cọc để bảo đảm giao kết hợp đồng

Trường hợp này, Tòa án phải xác định nhà, đất không còn là di sản thừa kế mà đã chuyển thành quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của các cá nhân và giải quyết bác yêu cầu chia di sản thừa kế là nhà, đất.

16. (Dự thảo án lệ số 16 năm 2018 về Dân sự) Về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do nhầm lẫn

Quan hệ pháp luật không phải là kiện đòi tài sản mà là tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tòa án cấp sơ thẩm xác định tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là đúng, Tòa án cấp phúc thẩm xác định quan hệ pháp luật là kiện đòi tài sản là không chính xác.

17.  (Dự thảo án lệ số 17 năm 2018 về Dân sự) Về trách nhiệm chi trả quyền lợi bảo hiểm trong trường hợp yêu cầu kê khai thông tin không rõ ràng

Hợp đồng bảo hiểm, quy tắc bảo hiểm, đơn yêu cầu bảo hiểm có yêu cầu không rõ ràng về việc kê khai tình trạng bệnh lý của người được bảo hiểm mà thông tin đó không phải là căn cứ quyết định việc xác lập hợp đồng bảo hiểm

18.  (Dự thảo án lệ số 18 năm 2018 về Kinh doanh thương mại) Về lỗi và thiệt hại trong trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng cho thuê tài sản; hủy quyết định không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn và bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại

Trường hợp này, Tòa án phải xác định bên thuê có lỗi và phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại gây ra cho bên cho thuê; thiệt hại thực tế là khoản tiền cho thuê phương tiện trong thời gian còn lại của hợp đồng.

19.  (Dự thảo án lệ số 19 năm 2018 về Kinh doanh thương mại) Về tính hợp pháp của Thư ký ghi biên bản phiên họp Đại hội đồng cổ đông không phải là Thư ký của công ty

Chủ toạ cử một người làm thư ký lập biên bản họp Đại hội đồng cổ đông” nhưng Luật Doanh nghiệp không quy định thư ký Đại hội đồng cổ đông, phải là thư ký của công ty

20.  Dự thảo án lệ số 20 về Lao động: Xác lập quan hệ hợp đồng lao động theo loại hợp đồng trong thư mời làm việc sau khi hết thời gian thử việc

Trường hợp này, Tòa án phải xác định nhà, đất không còn là di sản thừa kế mà đã chuyển thành quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của các cá nhân và giải quyết bác yêu cầu chia di sản thừa kế là nhà, đất.

Dự thảo án lệ số 14/2024 về thẩm quyền của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến hoạt động trọng tài; hoàn trả án phí

DỰ THẢO ÁN LỆ SỐ 14/2024[I]

ÁN LỆ SỐ .../2024/AL

Về thẩm quyền của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến hoạt động
trọng tài; hoàn trả án phí

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày .... tháng .... năm 2024 và được công bố theo Quyết định số .../QĐ-CA ngày ...tháng... năm 2024 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Bản án số 06/2024/KDTM- PT ngày 11/01/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về việc tranh chấp bồi thường thiệt hại giữa nguyên đơn là Công ty TNHH L và bị đơn là Trung tâm trọng tài V.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 3 và 8 phần “Nhận định của Tòa án”.

Khái quát nội dung của án lệ:

- Tình huống án lệ 1:

Tranh chấp giữa nguyên đơn là một doanh nghiệp và bị đơn là một Trung tâm trọng tài thương mại (là đơn vị cung cấp dịch vụ pháp lý) liên quan đến hoạt động trọng tài.

- Giải pháp pháp lý 1:

Trường hợp này, Toà án phải xác định tranh chấp này liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật về trọng tài thương mại nên không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện mà thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

- Tình huống án lệ 2:

Tòa án cấp sơ thẩm đã thụ lý và giải quyết vụ án không đúng thẩm quyền. Nguyên đơn đã nộp tạm ứng án phí sơ thẩm, bị đơn đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm. Tại cấp phúc thẩm, nguyên đơn rút đơn khởi kiện, bị đơn đồng ý.

- Giải pháp pháp lý 2:

Trường hợp này, Toà án phải đình chỉ việc giải quyết vụ án và xác định nguyên đơn, bị đơn không phải chịu án phí sơ thẩm, phúc thẩm và trả lại tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn và bị đơn.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

Từ khóa của án lệ:

Bồi thường thiệt hại, Thẩm quyền giải quyết tranh chấp, Hoàn trả án phí tạm ứng.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo đơn khởi kiện và lời tự khai trong quá trình giải quyết vụ án người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Công ty TNHH L (sau đây gọi tắt là nguyên đơn) trình bày:

Nguyên đơn thuê tàu của Công ty vật tư hàng hải H để quản lý và khai thác, gọi là tàu P. Ngày 11/03/2017, tàu P xảy ra va chạm với tàu S mang quốc tịch Hàn Quốc khi di chuyển trên biển TP Hồ Chí Minh (tàu S đâm vào phía sau tàu P).

Ngày 24/3/2017, chủ tàu S đệ trình thư bảo lãnh của Công ty bảo hiểm B phát hành tới Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh với số tiền bảo lãnh là 1.818.500 đô la Mỹ và tàu S được thả cùng ngày.

Nguyên đơn và chủ tàu S cam kết “Trong vòng 30 ngày sau khi tàu P được sửa, nguyên đơn sẽ cấp cho Luật sư của chủ tàu S yêu cầu bồi thường và các văn bản chứng minh để 2 bên tiếp tục đàm phán về tổn số tiền bồi thường cuối cùng. Ngoài ra, hai bên đồng ý đưa mọi tranh chấp đến khoản thiệt hại của nguyên đơn ra trước Trung tâm trọng tài V để giải quyết”.

Tàu P được sửa xong nhưng nguyên đơn và chủ tàu S không đàm phán được về số tiền bồi thường cuối cùng. Ngày 11/10/2017, chủ tàu S khởi kiện nguyên đơn lên Trung tâm trọng tài V.

Ngày 29/7/2017, Trung tâm trọng tài V đưa ra Phán quyết trọng tài số 82/17/HCM.

Ngày 09/8/2019, nguyên đơn đưa ra yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài (sau đây viết tắt là PQTT).

Ngày 16/10/2019, Tòa án nhân dân TP HCM đưa ra Quyết định số 1420/2019/QĐ- PQTT hủy Phán quyết số 82/17/HCM của Trung tâm trọng tài V/bị đơn.

Trong thời gian giải quyết tại Trung tâm trọng tài V, nguyên đơn tạm ứng cho bị đơn số tiền 1.331.272.000 đồng. Sau khi Tòa án hủy PQTT, nguyên đơn đề nghị bị đơn hoàn trả số tiền tạm ứng. Bị đơn đề xuất chuyển trả số tiền 400.000.000 đồng nhưng nguyên đơn không đồng ý, đến nay vẫn chưa hoàn trả khoản tiền nào.

Trong đơn khởi kiện, nguyên đơn cho rằng mình đã bị thiệt hại từ PQTT không đúng quy định pháp luật của bị đơn, bao gồm:

- Phí tạm ứng cho bị đơn là 1.331.272.000 đồng;

- Lãi phát sinh từ tiền vay tạm ứng là 697.202.104 đồng (từ ngày 05/02/2018 đến 31/05/2023);

- Thiệt hại chứng thư bảo lãnh của Bảo hiểm Bảo Minh, tính lãi 943.029.260 đồng (từ 29/7/2019 đến 16/10/2019);

- Tiền vé máy bay, khách sạn trong quá trình giải quyết Trọng tài là 140.244.000 đồng;

- Tiền ăn uống tiếp khách trong quá trình giải quyết Trọng tài là 140.244.000 đồng.

Tổng cộng = 3.241.347.365 đồng.

Tại đơn khởi kiện nguyên đơn đề nghị Tòa án giải quyết, buộc bị đơn có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn tổng số tiền là 3.241.347.365 đồng.

Bị đơn do người đại diện theo ủy quyền trình bày:

- Việc lựa chọn giải quyết theo thủ tục Trọng tài là hoàn toàn tự nguyện giữa các bên như tự lựa chọn thủ tục, tự lựa chọn Trọng tài viên, ... bị đơn chỉ thực hiện chức năng tổ chức, điều phối hoạt động và hỗ trợ về mặt hành chính, văn phòng và các hỗ trợ khác.

  • Theo Luật TTTM, bị đơn không có khả năng đưa ra quyết định về nội dung tranh chấp hay đưa ra quyết định yêu cầu của bên này thuộc hay không thuộc thẩm quyền Trọng tài. Mục 1 Điều 38 Điều khoản chung của Trung tâm trọng tài V quy định “Trung tâm không tự mình giải quyết các vụ tranh chấp. Việc giải quyết được tiến hành bởi Hội đồng trọng tài (sau đây viết tắt là HĐTT).
  • HĐTT đã độc lập đưa ra Phán quyết và bị hủy bởi quyết định của Tòa án.

Đối với đơn khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn có 3 ý kiến như sau:

  • Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đã hết thời hiệu (Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP). Đối với thời hiệu 03 năm kể từ biết quyền lợi bị xâm phạm, khi nguyên đơn gửi yêu cầu hủy PQTT tới Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh ngày 09/8/2019, thì muộn nhất là ngày 09/8/2022, nguyên đơn phải thực hiện khởi kiện về việc lợi ích bị xâm phạm.
  • Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không có cơ sở pháp lý. Việc PQTT của bị đơn bị Tòa án hủy không phải là “hành vi xâm phạm” đối với bất cứ bên nào. Vụ việc giải quyết tranh chấp Trọng tài của nguyên đơn và chủ tàu S không thuộc các trường hợp được hoàn phí tại Phần II Hoàn trả phí Trọng tài theo Biểu phí trọng tài của bị đơn (bị đơn đã có hướng dẫn cụ thể cho nguyên đơn).
  • HĐTT trong vụ tranh chấp số 82/17/HCM là những người đã giải quyết tranh chấp và đưa ra Phán quyết, nên họ là những người liên quan trực tiếp với vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại. Trong các thành phần phí Trọng tài, sau khi thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước, phần lớn khoản thu phí được bị đơn chuyển trả thù lao cho các Trọng tài viên. Vậy nên nếu yêu cầu khởi kiện được chấp nhận thì quyền và nghĩa vụ của 3 Trọng tài viên là liên quan trực tiếp, nên phải đưa họ vào người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Bị đơn đề nghị Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án vì hết thời hiệu khởi kiện. Bác toàn bộ yêu cầu bồi thường của nguyên đơn vì không có căn cứ và ra quyết định đưa các Trọng tài viên trong vụ Tranh chấp trọng tài số 82/17/HCM vào vụ án với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Tại phiên tòa ngày 27 và 28/9/2023:

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện về khoản lãi phát sinh của số tiền tạm ứng phí Trọng tài; thiệt hại đối với khoản lãi suất phát sinh từ chứng thư bảo lãnh do Bảo hiểm Bảo Minh phát hành; chi phí máy bay, phòng nghỉ, chi phí ăn uống tiếp khách trong quá trình giải quyết tại Trung tâm trọng tài V và Tòa án.

Nguyên đơn chỉ yêu cầu, buộc bị đơn phải bồi thường thiệt hại toàn bộ số tiền mà nguyên đơn đã tạm ứng cho bị đơn trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài V 1.331.272.000 đồng.

Đại diện theo ủy quyền của bị đơn giữ nguyên quan điểm đã trình bày và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm e mục 1 Điều 217 BLTTDS ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án do thời hiệu khởi kiện đã hết; Bác toàn bộ các yêu cầu đòi bồi thường của nguyên đơn vì không có căn cứ; Ra quyết định thông báo và đưa các thành viên HĐTT vụ tranh chấp số 82/17HCM là ông J, ông Chu Khắc Hoài D và ông Ngô Khắc L vào tham gia tố tụng với tư các là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án; Ra quyết định chuyển vụ án lên Tòa án nhân dân TP Hà Nội để giải quyết theo thẩm quyền vì có yếu tố nước ngoài.

Bị đơn không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 111/2023/KDTM- ST ngày 27 và 28/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa đã xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Buộc bị đơn phải bồi thường cho nguyên đơn số tiền 1.331.272.000 đồng.

- Đình chỉ các yêu cầu khác của nguyên đơn.

2. Về án phí:

Nguyên đơn được chấp nhận yêu cầu khởi kiện nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả nguyên đơn số tiền 48.000.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0072152 ngày 28/6/2023.

Bị đơn phải nộp 51.938.000 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.

Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Không đồng ý với Bản án sơ thẩm nêu trên, bị đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm số 111/2023/KDTM-ST ngày 28 và 29/9/2023 của Toà án nhân dân quận Đống Đa.

Viện kiểm sát nhân dân TP Hà Nội kháng nghị vụ án và đề nghị Tòa án nhân dân TP Hà Nội hủy Bản án sơ thẩm và giữ lại vụ án để giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

Tại giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án:

Ngày 03/01/2024, nguyên đơn có xin rút yêu cầu khởi kiện vì nguyên đơn cho rằng việc nguyên đơn khởi kiện Trung tâm trọng tài V tại Toà án nhân dân quận Đống Đa là không đúng thẩm quyền của Toà án theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Luật TTTM. Đồng thời nguyên đơn xin vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn có kháng cáo trình bày, bị đơn nhất trí với kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân TP Hà Nội và Đơn xin rút yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì Tòa án nhân dân quận Đống Đa thụ lý vụ án là không đúng thẩm quyền, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ việc giải quyết vụ án và xem xét là Trung tâm trọng tài V không phải nộp tiền án phí theo Bản án sơ thẩm vì Trung tâm trọng tài V không có lỗi gì trong việc nguyên đơn khởi kiện và vụ án bị hủy.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của Viện kiểm sát nhân dân TP Hà Nội và đình chỉ việc giải quyết vụ án do nguyên đơn rút đơn khởi kiện và bị đơn đồng ý với việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Việc thụ lý và giải quyết vụ án của Tòa án nhân dân quận Đống Đa là không đúng thẩm quyền do đây không phải là vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án quận, huyện. Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết những vụ việc liên quan đến Trọng tài thương mại được quy định trong Luật TTTM cụ thể là khoản 5 Điều 49 Luật TTTM. Để nghị Hội đồng xét xử không buộc Trung tâm trọng tài V phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, sau khi nghe ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Về tố tụng:

[3] Đây là tranh chấp giữa nguyên đơn là một doanh nghiệp và bị đơn là một Trung tâm trọng tài thương mại (là đơn vị cung cấp dịch vụ pháp lý) nên là tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 30, Điều 31, điểm b khoản 1 Điều 35, Điều 37, Điều 38 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 7 Luật TTTM. Thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp này thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cụ thể là thuộc Tòa Kinh tế, Tòa án nhân dân TP Hà Nội. Tòa án nhân dân quận Đống Đa thụ lý và và giải quyết vụ tranh chấp theo thủ tục sơ thẩm là không đúng thẩm quyền.

[4] Ngoài ra, Luật TTTM chỉ quy định Trọng tài phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp HĐTT áp dụng khác hoặc vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tại thời theo quy định tại khoản 5 Điều 49 Luật TTTM. Trong vụ án này, Tòa án nhân dân quận Đống Đa thụ lý vụ án giữa nguyên đơn là một doanh nghiệp và bị đơn là một Trung tâm trọng tài thương mại, xác định quan hệ tranh chấp là đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là không đúng tinh thần quy định của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và tinh thần quy định của Luật TTTM.

[5] Bị đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm trong thời hạn luật định và đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Do vậy, kháng cáo của bị đơn là hợp lệ.

[6] Viện kiểm sát kháng nghị Bản án sơ thẩm phù hợp với quy định của pháp luật.

[7] Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, bị đơn đồng ý với việc rút yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử hủy Bản án sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử nhận thấy đề nghị của bị đơn và đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự và phù hợp với tinh thần quy định của Luật TTTM.

[8] Về án phí, do Tòa án nhân dân quận Đống Đa thụ lý vụ án không đúng thẩm quyền và nguyên đơn có đơn rút yêu cầu khởi kiện nên Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy Bản án sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án. Vì vậy, nguyên đơn và bị đơn không phải chịu án phí sơ thẩm và án phí phúc thẩm kinh doanh thương mại.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Các điều 293, 294, 308 và 311 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 7 Luật trọng tài thương mại;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Hủy Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 111/2023/KDTM- ST ngày 27 28/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa và đình chỉ giải quyết vụ án.

2. Hoàn trả Công ty TNHH L số tiền 48.000.000 (bốn mươi tám triệu) đồng tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0072152 ngày 28/6/2023 của Chi cục thi hành án dân sự quận Đống Đa.

Hoàn trả Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 2884 ngày 26/10/2023 của Chi cục thi hành án dân sự quận Đống Đa.

Bản án phúc thẩm xử công khai và có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“[3] Đây là tranh chấp giữa nguyên đơn là một doanh nghiệp và bị đơn là một Trung tâm trọng tài thương mại (là đơn vị cung cấp dịch vụ pháp lý) nên là tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 30, Điều 31, điểm b khoản 1 Điều 35, Điều 37, Điều 38 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 7 Luật TTTM. Thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp này thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cụ thể là thuộc Tòa Kinh tế, Tòa án nhân dân TP Hà Nội. Tòa án nhân dân quận Đống Đa thụ lý và và giải quyết vụ tranh chấp theo thủ tục sơ thẩm là không đúng thẩm quyền.

[8] Về án phí, do Tòa án nhân dân quận Đống Đa thụ lý vụ án không đúng thẩm quyền và nguyên đơn có đơn rút yêu cầu khởi kiện nên Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy Bản án sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án. Vì vậy, nguyên đơn và bị đơn không phải chịu án phí sơ thẩm và án phí phúc thẩm kinh doanh thương mại.”

DO ĐỀ XUẤT ÁN LỆ

1. Tình huống án lệ thứ nhất:

Luật TTTM quy định về “Xác định Toà án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài” tại Điều 7 trong đó khoản 3 khẳng định “Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này là Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”. Tuy nhiên, Điều luật này chưa rõ “hoạt động trọng tài” có bao gồm hoạt động (làm phát sinh tranh chấp) giữa một doanh nghiệp và một Trung tâm trọng tài thương mại (là đơn vị cung cấp dịch vụ pháp lý) hay không?

BLTTDS có quy định về thẩm quyền của Tòa án (cấp thẩm quyền cũng như thẩm quyền về nội dung) ghi nhận thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh, thương mại trong đó có “Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại” (Điều 31 và tiếp theo). Tuy nhiên, BLTTDS cũng chưa làm rõ “Yêu cầu liên quan” này có bao gồm hoạt động (làm phát sinh tranh chấp) giữa một doanh nghiệp và một Trung tâm trọng tài thương mại (là đơn vị cung cấp dịch vụ pháp lý) hay không?

Trước sự không rõ ràng như nêu trên, hiện nay quan điểm trái chiều nhau: quan điểm thứ nhất cho rằng đây là vấn đề thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện như tranh chấp khác nhưng có quan điểm lại cho rằng đây là vấn đề thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh về hoạt động trọng tài.

Dự thảo Án lệ theo hướng quan điểm thứ hai nêu trên và là cần thiết. Bởi lẽ, Tòa án nhân dân cấp huyện không có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về Trọng tài thương mại và yêu cầu này thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh (Tòa kinh tế). Hướng này sẽ tạo ra sự thống nhất cao về thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài: tất cả những gì liên quan đến Trọng tài cần trao cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh (Tòa kinh tế).

2. Tình huống án lệ thứ hai:

BLTTDS có quy định về hoàn trả án phí khi đình chỉ vụ án (Điều 218) nhưng chưa rõ về việc có hoàn trả án phí tạm ứng khi có việc nguyên đơn rút đơn khởi kiện và bị đơn đồng ý trong trường hợp Tòa án đã thụ lý sai thẩm quyền.

Để bảo vệ lợi ích của các bên trong trường hợp nêu trên, cần có hướng xử lý trong hoàn cảnh nêu trên và Dự thảo án lệ theo hướng hoàn trả án phí tạm ứng cho các bên là cần thiết (đây là do lỗi của cơ quan tố tụng, không phải do lỗi của các bên nên cần hoàn trả án phí cho đương sự).


[I] Dự thảo án lệ này do Thẩm phán Hoàng Ngọc Thành, Chánh tòa Tòa Kinh tế, Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đề xuất.

 

Nguồn: Trang tin điện tử về án lệ (anle.toaan.gov.vn)

Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại: “Trọng tài” không phải trọng tài bóng đá!

Khi làm ăn kinh doanh, chuyện bất đồng là khó tránh. Bạn bán hàng, đối tác không trả tiền đúng hẹn; hay ký hợp đồng thuê mặt bằng, chủ nhà lại đòi tăng giá vô lý. Lúc này, thay vì kéo nhau ra tòa án “đấu khẩu” mất thời gian, có một cách khác nhẹ nhàng hơn: trọng tài thương mại. Nghe thì “cao siêu”, nhưng thực ra nó gần gũi hơn bạn nghĩ. Hôm nay, hãy cùng tìm hiểu một chút về trọng tài thương mại: nó là gì, nó hoạt động ra sao, và tại sao nhiều người chọn nó để giải quyết tranh chấp.

Trọng tài thương mại là gì? Đơn giản thôi!

Trọng tài thương mại là cách hai bên tranh chấp (thường là doanh nghiệp, cá nhân làm ăn) nhờ một bên thứ ba trung lập – gọi là trọng tài viên – đứng ra phân xử. Không giống tòa án có thẩm phán, trọng tài giống như “người phán xử” mà cả hai bên tự chọn. Ở Việt Nam, việc này được quy định trong Luật Trọng tài Thương mại 2010, áp dụng cho các tranh chấp kinh doanh, hợp đồng, hay thương mại nói chung.

Ví dụ nhé: Công ty của anh Hùng bán 100 tấn gạo cho công ty B, thỏa thuận giao hàng trong 10 ngày. Nhưng công ty B nhận hàng rồi “im re”, không trả tiền. Anh Hùng bực mình, muốn kiện ra tòa. Nhưng hợp đồng có ghi: “Tranh chấp sẽ giải quyết bằng trọng tài tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC)”.

Thế là thay vì lên tòa, anh nhờ VIAC phân xử trắng đen đúng sai. Trọng tài viên nghe cả hai bên, xem tài liệu hợp đồng, rồi ra quyết định – nhanh gọn lẹ!

Tại sao chọn trọng tài thay vì tòa án?

Trọng tài có mấy điểm “hấp dẫn” mà tòa án khó sánh bằng:

  • Nhanh hơn: Thủ tục tòa án thường kéo dài cả năm, còn trọng tài có thể xong trong vài tháng.
  • Bí mật: Chuyện tranh chấp không bị “phơi” ra công chúng, giữ uy tín cho cả hai bên.
  • Tự chọn “người phán xử”: Bạn được chọn trọng tài viên – thường là chuyên gia am hiểu lĩnh vực của bạn, không phải ai xa lạ.
  • Linh hoạt: Thủ tục đơn giản, không cứng nhắc như tòa.

Ví dụ nè: Chị Lan có doanh nghiệp làm bánh, ký hợp đồng thuê mặt bằng 20 triệu/tháng với anh Tuấn. Đùng một cái, anh Tuấn đòi tăng lên 50 triệu, bảo “thị trường lên giá”. Chị Lan không chịu, hai bên cãi nhau to. Nếu ra tòa, chuyện có thể kéo dài, tiệm bánh của chị bị ảnh hưởng vì “ồn ào”. Nhưng họ chọn trọng tài. Một trọng tài viên là chuyên gia bất động sản được mời, xem hợp đồng, nghe cả hai, rồi phán: “Giá thuê giữ nguyên vì hợp đồng không cho phép tăng”. Xong trong 3 tháng, chị Lan yên tâm làm bánh tiếp!

Trọng tài hoạt động thế nào?

Quy trình trọng tài không phức tạp như bạn tưởng:

1. Thỏa thuận trước: Muốn dùng trọng tài, hợp đồng phải có điều khoản “giải quyết tranh chấp bằng trọng tài” từ đầu. Nếu không có, hai bên cần thỏa thuận sử dụng trọng tài sau khi tranh chấp xảy ra.

2. Chọn trọng tài viên: Thường qua trung tâm trọng tài như VIAC, VTA hoặc các tổ chức trọng tài được cấp phép khác, hai bên chọn người hoặc nhờ trung tâm chỉ định.

3. Phiên giải quyết: Trọng tài viên nghe cả hai bên trình bày, xem chứng cứ (hợp đồng, email, hóa đơn…), rồi ra phán quyết.

4. Thực thi: Phán quyết trọng tài có giá trị như bản án tòa án, các bên phải tuân theo. Nếu không, có thể nhờ thi hành án buộc thi hành.

Ví dụ: Công ty A bán máy móc cho công ty B, nhưng máy hỏng ngay tuần đầu. Công ty B không trả tiền, công ty A đòi kiện. Họ chọn trọng tài qua VIAC. Trọng tài viên – một kỹ sư cơ khí – kiểm tra hợp đồng, xem báo cáo hỏng hóc, rồi quyết định: “Công ty A phải sửa máy, công ty B trả 50% tiền trước”. Cả hai đồng ý, tránh được vụ kiện lê thê.

Lợi và hạn chế: Không phải lúc nào cũng “hoàn hảo”

Trọng tài có cái hay, nhưng cũng có điểm cần lưu ý:

  • Lợi: Tiết kiệm thời gian, tiền bạc (so với tòa), giữ được mối quan hệ làm ăn vì không “đấu đá” công khai.
  • Hạn chế: Chi phí thuê trọng tài viên không rẻ (có thể vài chục triệu tùy vụ), và phán quyết trọng tài không kháng cáo được (trừ trường hợp hiếm hoi như thủ tục bị sai chẳng hạn).

Ví dụ: Anh Hùng trong vụ gạo kể trên tốn 30 triệu phí trọng tài, nhưng anh bảo “vẫn đáng hơn ra tòa mất cả năm”. Ngược lại, nếu anh không đồng ý phán quyết, anh không thể “kêu” thêm lần nữa như ở tòa án.

Khi nào nên chọn trọng tài?

Nếu bạn là doanh nghiệp nhỏ hay cá nhân làm ăn, trọng tài hợp với các vụ tranh chấp hợp đồng, mua bán, thuê mướn – nhất là khi muốn giữ bí mật và giải quyết nhanh. Nhưng nhớ nhé, phải có thỏa thuận trọng tài từ đầu, không thì phải thuyết phục đối phương đồng ý sau tranh chấp.

Trọng tài – “trợ thủ” khi làm ăn trục trặc

Trọng tài thương mại không phải “trọng tài bóng đá” thổi còi phạt, mà là “người phán xử” giúp bạn giải quyết tranh chấp êm ru. Nó nhanh, kín đáo, linh hoạt – rất đáng thử nếu bạn muốn tránh cảnh “đối đầu” căng thẳng ở tòa. Với sinh viên luật và người hành nghề luật, đây là mảng thú vị để khám phá; với doanh nghiệp, nó là “trợ thủ” khi làm ăn gặp trục trặc. Lần tới ký hợp đồng, bạn có thêm điều khoản trọng tài không? Nghĩ thử xem nhé!

Tìm hiểu bài này nếu bạn có ý định chuyển hướng sự nghiệp từ môi trường Công ty luật sang Pháp chế doanh nghiệp

Tìm hiểu thêm:

LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP CHO LUẬT SƯ: Khác biệt giữa làm việc tại HÃNG LUẬT và PHÁP CHẾ? (phần 1)

LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP CHO LUẬT SƯ: Khác biệt giữa làm việc tại HÃNG LUẬT và PHÁP CHẾ? (Phần 2/2)

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Nếu là một luật sư đang tìm kiếm con đường thăng tiến trong sự nghiệp, hẳn bạn đã từng phân vân giữa môi trường làm việc tại Công ty luật (law firm) hay là tại vị trí Pháp chế doanh nghiệp (in-house). Sự phân vân quả thực là có cơ sở. Mỗi môi trường đều có những đặc thù riêng, yêu cầu khác nhau và mở ra những cơ hội phát triển khác biệt.

Bài viết phân tích sau đây sẽ giúp bạn có thêm góc nhìn của từng lựa chọn và chuẩn bị sẵn sàng cho một lộ trình sự nghiệp vững chắc và phù hợp với chính mình.

1. Sự khác biệt về môi trường làm việc

1.1 Văn hóa làm việc

Văn hóa làm việc là yếu tố then chốt ảnh hưởng đến sự gắn bó và phát triển nghề nghiệp của một luật sư trong cả hai môi trường. Không chỉ là nhịp độ công việc, sự khác biệt còn nằm ở cách phối hợp nội bộ, cách trao đổi thông tin và cách ra quyết định.

Tại Công ty luật

Nếu bạn là người thích môi trường làm việc năng động, chuyên nghiệp, có tính cạnh tranh, thích đối mặt với những thử thách pháp lý phức tạp, môi trường làm việc tại Công ty luật có thể là lựa chọn lý tưởng. Công ty luật hoạt động như một tổ chức dịch vụ chuyên nghiệp, đề cao sự chính xác và cẩn trọng trong chuyên môn. Tại đây, bạn sẽ làm việc với nhiều khách hàng khác nhau trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề và tiếp xúc, xử lý các vụ tranh chấp, tư vấn giao dịch, hoặc các vấn đề pháp lý quan trọng từ góc độ cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng của mình.

Cạnh tranh trong Công ty luật rất khốc liệt và bạn sẽ phải cạnh tranh với các đồng nghiệp của mình. Tại 1 số công ty luật và tùy từng vị trí, càng lên cao, bạn càng được đánh giá qua số giờ làm việc có thể tính phí, khả năng thu hút khách hàng và hiệu suất công việc. Nhịp độ làm việc nhanh, khối lượng công việc lớn và không hiếm khi bạn phải ở lại văn phòng xử lý công việc để đáp ứng yêu cầu về tiến độ của khách hàng.

Pháp chế doanh nghiệp

Nếu bạn muốn tham gia vào quá trình ra quyết định của doanh nghiệp và đồng hành cùng một tổ chức lâu dài thì vai trò pháp chế có thể phù hợp hơn. Văn hóa trong bộ phận pháp chế doanh nói chung mang tính liên kết và hợp tác nội bộ nhiều hơn so với Công ty luật.

Tại đây, bạn tập trung vào việc hỗ trợ pháp lý cho công ty, khi đó khách hàng của bạn là các phòng ban nội bộ của công ty. Bạn không còn làm việc để phục vụ khách hàng bên ngoài mà là để hỗ trợ các phòng ban nội bộ đạt mục tiêu. Điều này yêu cầu bạn phải nắm bắt về về mô hình kinh doanh, quy trình, chính sách nội bộ, quan hệ giữa các phòng ban  và các vấn đề khác không chỉ đơn thuần là các điều luật.

Khác với khi làm việc tại Công ty luật, bạn không có áp lực billable hours nhưng phải chịu trách nhiệm đảm bảo công ty luôn tuân thủ pháp luật và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Khi công ty gặp vấn đề pháp lý, áp lực lên bạn có thể rất lớn.

1.2. Áp lực công việc

Tại Công ty luật

Ngoài áp lực cạnh tranh với đồng nghiệp, bạn sẽ đối mặt với áp lực doanh số và deadline của khách hàng khi làm việc tại Công ty luật. Trong số mảng đặc thù như tư vấn M&A, tài chính, hoặc tranh tụng, khối lượng công việc có thể biến động mạnh, nhất là trong các giao dịch quan trọng của khách hàng hoặc các vụ tranh chấp lớn, đặc biệt là trong các giai đoạn cao điểm

Pháp chế doanh nghiệp

Công việc pháp chế trông có vẻ ổn định hơn nhưng vẫn đầy thách thức không kém. Bạn cần có khả năng cân bằng giữa tuân thủ pháp luật và đáp ứng nhu cầu kinh doanh, một nhiệm vụ không hề đơn giản. Một trong những thách thức lớn nhất của luật sư pháp chế là phải đảm bảo doanh nghiệp tuân thủ pháp luật, chính sách nội bộ nhưng đồng thời không làm cản trở các hoạt động kinh doanh.

Ví dụ: Các phòng ban như kinh doanh, marketing, tài chính, mua hàng, vận hành có thể đưa ra các đề xuất, sáng kiến, dự án mới để thúc đẩy doanh thu hay chỉ đơn giản là thực hiện các công việc của các bộ phận này. Họ sẽ tìm đến bạn, một thành viên của bộ phận pháp chế doanh nghiệp, để được tư vấn sớm hoặc thậm chí là đã triển khai rồi mới tìm đến bạn.

Thông thường kỳ vọng của họ sẽ là bộ phận pháp chế phải phân tích khả thi, đánh giá rủi ro và tư vấn phương án tuân thủ nhưng không làm gián đoạn hoạt động họ muốn triển khai. Nếu nói "không" nhiều lần, rất có thể bạn sẽ bị nhìn nhận là người gây khó dễ hoặc thiếu tinh thần hỗ trợ. Nhưng nếu nói "có", bạn phải sẵn sàng chịu trách nhiệm cho lời tư vấn của mình, đặc biệt nếu sau đó phát sinh rủi ro và hậu quả pháp lý. Điều này yêu cầu bạn phải có nền tảng vững vàng về chuyên môn pháp lý, vừa có tư duy linh hoạt và khả năng giao tiếp tốt, vừa bảo vệ doanh nghiệp và vừa hỗ trợ hoạt động kinh doanh diễn ra suôn sẻ.

Ngoài ra, bộ phận pháp chế doanh nghiệp không thể vắng mặt khi phải xử lý tranh chấp hợp đồng, kiện tụng lao động, hay khi bị cơ quan chức năng thanh tra. Khi xảy ra mâu thuẫn nội bộ, chẳng hạn như xung đột giữa nhân viên và công ty, hay giữa các cổ đông, bạn cũng phải đóng vai trò trung gian để giải quyết vấn đề một cách hợp lý, tránh leo thang thành tranh chấp pháp lý. Trong các trường hợp này, bạn phải phối hợp chặt chẽ với các bộ phận liên quan, quản lý khủng hoảng, làm việc với cơ quan quản lý và tư vấn cho ban lãnh đạo về hướng giải quyết. 

1.3. Cách đưa ra ý kiến pháp lý: Chủ động hay hỗ trợ?

Tại Công ty luật

Trong Công ty luật, luật sư thường đưa ra ý kiến pháp lý độc lập. Các ý kiến này chủ yếu phục vụ khách hàng bên ngoài, được trình bày dưới dạng bản tư vấn pháp lý, email tư vấn hoặc lập luận trong hồ sơ tranh tụng. Dù đôi khi khách hàng có thể mong muốn một kết luận "có lợi", nhưng bạn vẫn được kỳ vọng duy trì lập trường trung lập, logic và tuân thủ các quy định pháp luật.

Một khi đã có kết quả công việc, ví dụ như bản tư vấn pháp lý, được gửi cho khách hàng, việc áp dụng như thế nào sẽ nằm sự cân nhắc và quyết định của khách hàng. Nếu khách hàng không có yêu cầu khác, ít khi luật sư phải tham gia vào quá trình thực thi hoặc vận hành các quyết định đó về sau.

Chính vì vậy, sự tách biệt giữa vai trò tư vấn và vận hành trong công ty luật giúp luật sư duy trì tính chuyên môn hóa cao. Tuy nhiên, điều này cũng có thể khiến cho nội dung tư vấn trở nên thiếu thực tiễn nếu luật sư không hiểu sâu bối cảnh cụ thể của doanh nghiệp hoặc ngành nghề mà khách hàng đang hoạt động.

Pháp chế doanh nghiệp

Ngược lại, luật sư pháp chế doanh nghiệp không chỉ đưa ra ý kiến pháp lý mà còn phải giải bài toán phù hợp với vận hành kinh doanh. Điều này đồng nghĩa với việc bạn không chỉ dừng lại ở phân tích quy định pháp luật, mà còn phải cân nhắc đến các yếu tố tài chính, thương mại, nhân sự, quy trình nội bộ và văn hóa doanh nghiệp, con người. Bạn không chỉ chỉ ra rủi ro mà còn phải đề xuất phương án thay thế, linh hoạt và phù hợp với mục tiêu kinh doanh.

Trong nhiều trường hợp, bạn phải ra quyết định trong bối cảnh khi chưa có đầy đủ thông tin hoặc thông tin chưa rõ ràng. Điều này đòi hỏi sự tỉnh táo, khả năng cân nhắc rủi ro đa chiều, và bản lĩnh chịu trách nhiệm với lời tư vấn của mình.

Ví dụ, nếu phòng Sale -  Marketing muốn thực hiện một chiến dịch quảng cáo mới nhưng nội dung có khả năng vi phạm quy định cạnh tranh và quảng cáo, bạn không thể đơn thuần trả lời "không được làm". Thay vào đó, bạn cần đề xuất cách điều chỉnh nội dung để đảm bảo tuân thủ mà vẫn đạt được hiệu quả truyền thông mong muốn.

Một ví dụ khác điển hình thể hiện sự khác biệt trong cách tiếp cận xử lý công việc giữa luật sư trong hai môi trường. Nói đến giấy ủy quyền, luật sư nào cũng sẽ biết về sự ủy quyền khi doanh nghiệp muốn ủy quyền cho một cá nhân ký kết hợp đồng hoặc tham gia giao dịch với đối tác.

Trong khi luật sư tại công ty luật có xu hướng tập trung vào hình thức và tính hợp pháp của nội dung trên Giấy ủy quyền theo quy định pháp luật, luật sư pháp chế sẽ cần đánh giá sâu hơn: (1) phạm vi ủy quyền có phù hợp với quy trình nội bộ, cơ chế kiểm soát và phân quyền trong công ty hay không? (2) Việc ban hành giấy ủy quyền trong doanh nghiệp thường đi kèm với việc trình phê duyệt, kiểm tra điều kiện nội bộ và đảm bảo rằng người được ủy quyền thực sự có đủ thẩm quyền theo chính sách nội bộ đã ban hành.

Ngoài ra, bạn còn phải biết truyền đạt ý kiến pháp lý theo cách mà các bộ phận có thể hiểu và áp dụng, tạo ra sự kết nối hiệu quả giữa pháp chế và hoạt động vận hành thực tế của doanh nghiệp.

1.4. Cơ hội phát triển sự nghiệp: Đâu là con đường dài hạn của bạn?

Tại Công ty luật

Nếu bạn muốn thăng tiến nhanh và có thu nhập cao, Công ty luật có thể là lựa chọn hấp dẫn. Bạn có thể tham khảo các báo cáo về mức lương trên thị trường lao động do các công ty tuyển dụng phát hành hàng năm. Con đường sự nghiệp của bạn thường sẽ trải qua một số mốc chính (tên tiếng Anh thường gặp) như: từ Paralegal → Associate → Senior Associate → Partner. Để lên Partner, bạn cần không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn phải có kỹ năng phát triển khách hàng, xây dựng thương hiệu cá nhân và đóng góp vào sự phát triển của công ty luật. Luật sư tại các công ty luật lớn còn có cơ hội trở thành Equity Partner – một vị trí vừa mang tính chuyên môn cao, vừa gắn liền với quyền lợi sở hữu và điều hành trong tổ chức.

Pháp chế doanh nghiệp

Trong môi trường pháp chế doanh nghiệp và tùy thuộc vào cơ cấu nhân sự tại đây, bạn có thể bắt đầu từ vị trí[1]: Chuyên viên pháp lý (Legal Executive hoặc Legal Officer), sau đó thăng tiến lên các vị trí quản lý như Trưởng phòng pháp lý (Legal Manager), Giám đốc pháp lý (Head of Legal), hoặc các vị trí có tên gọi khác nhau như là General Counsel hay là Vice President.

Tùy theo nhu cầu của doanh nghiệp, vị trí luật sư pháp chế còn có thể mở rộng phạm vi hoạt động sang các lĩnh vực khác như Tuân thủ (Compliance), Quản trị rủi ro (Risk management), Quan hệ chính phủ (Governmental Affairs), Đối ngoại (Public Affairs).

Ở các cấp bậc cao, bạn không chỉ phụ trách pháp lý thuần túy mà còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình ra quyết định chiến lược, xây dựng cơ chế kiểm soát nội bộ, quản lý rủi ro tổng thể và thậm chí tham gia điều hành doanh nghiệp ở cấp cao. Đây là các vị trí đòi hỏi năng lực quản trị, khả năng phối hợp giao tiếp và tư duy chiến lược.

Điểm khác biệt then chốt chúng ta có thể nhìn thấy là luật sư công ty luật phát triển theo “chiều sâu chuyên môn và xây dựng danh tiếng nghề nghiệp”, còn luật sư pháp chế phát triển theo “chiều rộng quản trị và vai trò chiến lược trong tổ chức”.

2. Thách thức khi chuyển môi trường làm việc từ Công ty luật sang Pháp chế doanh nghiệp

Việc chuyển từ môi trường làm việc từ công ty luật sang pháp chế doanh nghiệp không chỉ là sự thay đổi về môi trường làm việc, mà còn là một sự chuyển đổi toàn diện về tư duy, vai trò và phương thức vận hành công việc. Dưới đây là những thách thức điển hình mà một luật sư có thể đối mặt khi thực hiện bước chuyển này:

2.1. Chuyển vai từ luật sư tư vấn sang cố vấn nội bộ

Trong công ty luật, luật sư thường làm việc theo yêu cầu cụ thể từ khách hàng và phản hồi mang tính độc lập. Trong khi đó, tại doanh nghiệp, bạn không chỉ đưa ra tư vấn mà còn phải chủ động phát hiện rủi ro, xây dựng quy trình phòng ngừa và đồng hành với hoạt động nội bộ. Sự thay đổi từ phản ứng sang chủ động này đòi hỏi tư duy chiến lược và hiểu sâu hệ thống vận hành.

2.2. Làm việc với nhiều phòng ban

Từ việc chủ yếu phối hợp với các đồng nghiệp cùng chuyên môn trong công ty luật, bạn sẽ chuyển sang môi trường phải làm việc với các bộ phận như tài chính, nhân sự, kinh doanh, vận hành… Mỗi bộ phận có cách làm việc, văn hóa và ưu tiên khác nhau, nên luật sư pháp chế cần có kỹ năng giao tiếp, thuyết phục và diễn giải luật pháp bằng ngôn ngữ dễ hiểu và phù hợp với từng đối tượng, từng đối tượng.

2.3. Làm việc độc lập và đa nhiệm

Nhiều doanh nghiệp – đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ – chỉ có một vị trí pháp chế duy nhất. Bạn sẽ phải một mình đảm nhiệm mọi vấn đề pháp lý từ hợp đồng, lao động, tuân thủ, tranh chấp…, thậm chí phải vừa làm việc với cơ quan nhà nước, vừa hỗ trợ phòng ban nội bộ. Khi cần thuê công ty luật hỗ trợ, bạn vẫn là người chịu trách nhiệm chính và định hướng chiến lược xử lý.

2.4. Nếu phải báo cáo cho cấp trên không phải là luật sư

Khác với công ty luật, nơi bạn báo cáo cho người cùng chuyên môn, ở môi trường doanh nghiệp, vị trí của bạn có thể phải báo cáo cho Giám Đốc Tài Chính, Giám Đốc Nhân Sự hay CEO. Nếu không biết cách trình bày vấn đề theo góc nhìn rủi ro – hiệu quả – ảnh hưởng tài chính, bạn có thể không được đánh giá đúng năng lực hoặc thuyết phục được cấp trên về giải pháp đề xuất của bạn.

2.5 Hiểu và thích nghi với hệ thống nội bộ

Nếu có cơ hội làm việc tại các tập đoàn đa quốc gia (MNC), bạn cần hiểu không chỉ pháp luật Việt Nam mà còn phải tiếp cận với chuẩn mực quốc tế, chính sách tập đoàn trên toàn cầu và khu vực, và cơ chế kiểm soát tuân thủ chặt chẽ. Việc tương tác với các cố vấn pháp lý toàn cầu, báo cáo theo chuẩn mực quốc tế hoặc tham gia hệ thống đào tạo tuân thủ toàn cầu cũng là một thử thách lớn nếu bạn chưa quen với môi trường này.

3. Bí quyết thích nghi khi chuyển môi trường làm việc từ Công ty luật sang môi trường Pháp chế doanh nghiệp

3.1. Chuyển đổi tư duy

Trong Công ty luật, bạn có thể quen với việc giải quyết tranh chấp hoặc xử lý các giao dịch quan trọng. Nhưng khi làm việc trong môi pháp chế, nhiệm vụ của bạn không chỉ là xử lý vấn đề với tâm lý "nên ngăn chặn ngay từ đầu". Thay vào đó, bạn cần có cái nhìn dài hạn, giúp công ty hoạt động tuân thủ mà vẫn đạt được mục tiêu.

Ví dụ điển hình là khi công ty phát triển sản phẩm hoặc dịch vụ mới, thay vì chỉ soát xét hợp đồng đẻ bán hàng và cung cấp dịch vụ, luật sư pháp chế cần đánh giá tổng thể toàn bộ quy trình triển khai: từ quyền sở hữu trí tuệ, điều kiện cấp phép, nội dung quảng cáo, đến cơ chế bảo vệ dữ liệu khách hàng. Bạn là người gác cổng sớm nhất để đảm bảo mọi hoạt động phù hợp với pháp luật và đạt mục tiêu kinh doanh.

3.2. Tư duy linh hoạt – không chỉ nói “Không”

Điều này nói thì dễ nhưng làm sẽ khó. Để cho an toàn, chúng ta có xu hướng tư duy "phân tích rủi ro" quá mức khiến trở thành người luôn nói "không". Trong thực tế, vai trò của luật sư pháp chế được kỳ vọng là đưa ra giải pháp hợp pháp, khả thi và hỗ trợ đạt được mục tiêu. Nếu phải nói "không", bạn cũng cần biết cách nói "không" một cách tinh tế và mang tính xây dựng.

Ví dụ, nếu nhận thấy chương trình khuyến mại của công ty thực hiện sẽ có rủi ro vi phạm pháp luật, thay vì phản ứng ngay bằng lời từ chối cứng nhắc, bạn có thể bắt đầu bằng việc ghi nhận mục tiêu của họ, phân tích rủi ro và sau đó đề xuất phương án điều chỉnh để phù hợp với luật – chẳng hạn như thay đổi hình thức khuyến mại, sửa thể lệ cho phù hợp, hoặc chia nhỏ giai đoạn triển khai.

Điều này không chỉ giúp bạn giữ được vai trò tư vấn tích cực, mà còn tạo được thiện chí và sự tin tưởng từ các phòng ban.

3.3. Phát triển kỹ năng giao tiếp - kỹ năng không thể thiếu nếu muốn được thăng tiến

Trong số các luật sư chúng tôi thường gặp – dù làm việc tại công ty luật hay tại bộ phận pháp chế – họ là người hướng nội (introvert). Điều này là hoàn toàn dễ hiểu, bởi công việc pháp lý vốn đòi hỏi sự tập trung cao độ và tư duy phân tích chuyên sâu.

Tuy nhiên, khi làm pháp chế doanh nghiệp, bạn sẽ là người trực tiếp hỗ trợ các phòng ban nội bộ – là những người không có nền tảng pháp lý. Do đó, bạn cần học cách trình bày rõ ràng, súc tích, đơn giản hóa vấn đề pháp lý theo ngôn ngữ mà các bộ phận có thể hiểu và áp dụng.

Kỹ năng giao tiếp – trình bày – thương lượng với các phòng ban và đặc biệt là với các cấp quản lý như trưởng phòng, giám đốc, ban điều hành – sẽ quyết định bạn có tạo được ảnh hưởng chiến lược hay không. Đây là yếu tố phân biệt giữa một luật sư thuần kỹ thuật và một cố vấn nội bộ đáng tin cậy.

Càng ở vị trí cao, bạn càng phải giao tiếp thường xuyên với lãnh đạo cấp cao, nơi mọi thông điệp cần được trình bày ngắn gọn, có trọng tâm và tập trung vào tác động kinh doanh thay vì thuật ngữ pháp lý chuyên sâu. Tuy nhiên, khi đang còn ở các vị trí thấp hơn, chúng ta cũng cần nhận thức rõ và không ngừng trau dồi để có nhiều cơ hội thăng tiến sau này.

Hãy xem kỹ năng giao tiếp không chỉ là một kỹ năng mềm, mà là năng lực giúp bạn chuyển hóa kiến thức pháp lý và xây dựng vị trí vững chắc trong môi trường pháp chế doanh nghiệp. Đây là kỹ năng không thể thiếu nếu bạn muốn tiến xa trong sự nghiệp.

3.4. Thích nghi với quy trình nội bộ và văn hóa doanh nghiệp

Trong Công ty luật, bạn có thể quen với việc làm theo từng vụ việc, nhưng trong doanh nghiệp, bạn cần hiểu rõ hệ thống quy trình nội bộ, từ phê duyệt hợp đồng, kiểm soát tuân thủ, đến quản lý rủi ro. Bạn cần nắm rõ các quy trình phê duyệt trong doanh nghiệp: ai được ký hợp đồng, khi nào cần ủy quyền, quy trình xét duyệt ngân sách… Việc hiểu cách doanh nghiệp vận hành giúp bạn đưa ra tư vấn có tính thực tế cao hơn và khả thi hơn khi triển khai thay vì chỉ áp dụng các điều khoản một cách máy móc.

Với ví dụ về giấy ủy quyền nêu trên, bạn không chỉ đánh giá hình thức pháp lý mà còn phải xem người được ủy quyền có đúng cấp, đúng quy trình phê duyệt nội bộ chưa, và có rủi ro xung đột hay không.

Một trong những điểm khác biệt lớn giữa Công ty luật và pháp chế doanh nghiệp là cách thức đưa ra quyết định. Trong Công ty luật, bạn có thể có quyền đưa ra ý kiến tư vấn độc lập đối với một vụ việc cụ thể. Nhưng trong doanh nghiệp, quyết định cuối cùng để hành động sẽ do người có thẩm quyền hoặc theo cơ chế phân yêu quyền để đưa ra quyết định. Điều này đòi hỏi bạn phải có khả năng thương lượng, đề xuất phương án khả thi thay vì chỉ đưa ra ý kiến pháp lý đơn thuần.

Các công ty MNC và FDI thường có các chỉ số KPI liên quan đến pháp chế, chẳng hạn như mức độ tuân thủ, thời gian xử lý hợp đồng, hoặc hiệu suất giải quyết tranh chấp. Luật sư pháp chế cần chủ động tìm hiểu những chỉ số này để đưa ra tư vấn sát với nhu cầu kinh doanh.

4. Kết luận

Việc chuyển môi trường làm việc từ Công ty luật sang môi trường pháp chế doanh nghiệp mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng đi kèm với không ít thách thức.

Để thành công, bạn cần chuẩn bị về tư duy, khả năng giao tiếp tốt, hiểu biết sâu về hoạt động kinh doanh và khả năng làm việc trong một hệ thống phức tạp. Khi bạn có thể kết hợp tốt giữa kiến thức pháp lý và tư duy kinh doanh, bạn không chỉ là một luật sư giỏi mà còn là một cố vấn chiến lược thực sự cho doanh nghiệp.

Nếu bạn đang cân nhắc chuyển từ Công ty luật sang pháp chế doanh nghiệp, hãy tự hỏi mình: Bạn có sẵn sàng thay đổi tư duy từ xử lý tranh chấp sang phòng ngừa rủi ro? Bạn có thể làm việc độc lập mà không có sự hỗ trợ của một đội ngũ luật sư? Bạn có đủ kiên nhẫn để giải thích các vấn đề pháp lý theo cách mà lãnh đạo không chuyên về luật có thể hiểu và đưa ra quyết định?

Nếu bạn muốn có một sự chuyển đổi suôn sẻ, hãy bắt đầu bằng việc trau dồi kỹ năng quản trị rủi ro, thương lượng, giao tiếp với lãnh đạo cấp cao và luôn học hỏi không ngừng để hiểu hơn mô hình kinh doanh và các khía cạnh liên quan, kể cả khi không phải là vấn đề pháp lý. Hãy thử kết nối với những người đã đi trước trong lĩnh vực pháp chế, tham gia vào các hội thảo, nhóm về pháp chế doanh nghiệp và không ngừng học hỏi.

Chúc bạn thành công.


[1] Tên gọi các vị trí, phòng ban có thể khác nhau tùy từng công ty

[Mới] Cơ chế lựa chọn Chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội không không thông qua đấu thầu

Nhằm tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục hành chính và đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà ở xã hội, Bộ Xây dựng đang dự thảo Nghị quyết của Quốc hội thí điểm về một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội để trình Chính phủ. Một trong những điểm đáng chú ý của dự thảo là cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu đối với các dự án nhà ở xã hội. Chính sách này nhằm đơn giản hóa quy trình đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai dự án và đáp ứng nhu cầu nhà ở của người thu nhập thấp và công nhân lao động, gắn liền với việc thực hiện Đề án Đầu tư xây dựng ít nhất 01 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021-2030.

Hãy cùng Caselaw Việt Nam tìm hiểu chi tiết về cơ chế này để hiểu rõ hơn về các quy định, phạm vi áp dụng và quy trình thực hiện.

1. Cơ sở pháp lý của chính sách

Cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu được xây dựng dựa trên các văn bản pháp luật và định hướng chính sách sau:

  • Hiến pháp 2013, trong đó quy định Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm chỗ ở cho công dân.
  • Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
  • Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
  • Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021- 2025
  • Luật Nhà ở 2023, quy định về chính sách ưu đãi phát triển nhà ở xã hội.
  • Luật Đấu thầu 2023, quy định về các trường hợp lựa chọn nhà đầu tư theo cơ chế đặc thù.
  • Luật Đầu tư công 2024, điều chỉnh về thủ tục đầu tư và các trường hợp không áp dụng đấu thầu khi lựa chọn nhà đầu tư.
  • Chỉ thị số 34-CT/TW năm 2024 của Ban Bí thư về phát triển nhà ở xã hội.
  • Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội năm 2025 về thí điểm một số cơ chế đặc thù nhằm phát triển nhà ở xã hội.

2. Các trường hợp giao chủ đầu tư không qua đấu thầu

Theo Dự thảo Nghị quyết, cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu áp dụng cho ba nhóm đối tượng sau

(i) Dự án nhà ở xã hội do UBND cấp tỉnh giao:

  • UBND cấp tỉnh có thể giao trực tiếp chủ đầu tư đối với các dự án nhà ở xã hội không thuộc trường hợp do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an hay Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quản lý.
  • Việc giao chủ đầu tư dựa trên danh mục dự án đã được công khai trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh, Bộ Xây dựng và Hệ thống thông tin nhà ở và thị trường bất động sản.
  • Nhà đầu tư phải có năng lực tài chính, kinh nghiệm và cam kết thực hiện đúng tiến độ.

(ii) Dự án nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân:

  • Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có thể giao chủ đầu tư đối với dự án nhà ở phục vụ sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp.
  • Chủ đầu tư phải đáp ứng đủ điều kiện theo Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản và Luật Đầu tư.

(iii) Dự án nhà ở xã hội sử dụng nguồn tài chính công đoàn:

  • Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam được giao chủ đầu tư đối với các dự án nhà ở xã hội dành cho công nhân, người lao động.
  • Việc triển khai phải đảm bảo mức giá nhà ở phù hợp với thu nhập của công nhân và sử dụng nguồn tài chính minh bạch.

3. Quy trình giao chủ đầu tư không qua đấu thầu

Một điểm đáng chú ý trong Dự thảo Nghị quyết là các dự án nhà ở xã hội không phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư. Thay vào đó, văn bản giao chủ đầu tư sẽ thay thế văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư, giúp đơn giản hóa thủ tục hành chính và rút ngắn thời gian triển khai dự án.

Theo quy định tại Điều 31, 32 Luật Đầu tư, các dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội sử dụng vốn ngoài đầu tư công phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư. Tuy nhiên, do các dự án này đã được quản lý thông qua việc phê duyệt quy hoạch, chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở, bố trí quỹ đất và giao chỉ tiêu phát triển nhà ở xã hội, nên Dự thảo Nghị quyết đề xuất miễn thủ tục này nhằm đẩy nhanh tiến độ đầu tư. Việc miễn thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư cũng tương tự như cơ chế đã được áp dụng cho các dự án đường sắt đô thị theo Nghị quyết số 188/2025/QH15, trong đó quy định các dự án được thực hiện ngay việc lập, thẩm định, quyết định đầu tư mà không phải qua bước lập và thẩm định chủ trương đầu tư.

Dự thảo Nghị quyết quy định một quy trình trong việc giao chủ đầu tư nhằm đảm bảo tính công khai và hiệu quả:

- Công bố danh mục dự án: UBND cấp tỉnh hoặc cơ quan có thẩm quyền công bố danh mục dự án nhà ở xã hội trên Cổng thông tin điện tử.

- Tiếp nhận hồ sơ đăng ký: Các doanh nghiệp có đủ năng lực tài chính, kinh nghiệm có thể đăng ký làm chủ đầu tư.

- Xét duyệt và lựa chọn chủ đầu tư: Dựa trên các tiêu chí về năng lực tài chính, kinh nghiệm thực hiện dự án, tiến độ cam kết, phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng.

- Ban hành quyết định giao chủ đầu tư: Sau khi xét duyệt, cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định giao chủ đầu tư, đồng thời thay thế văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư.

4. Một số nội dung liên quan đến cơ chế giao chủ đầu tư

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có thể trực tiếp quản lý các dự án nhà ở xã hội phù hợp với đối tượng thụ hưởng.

Nhà đầu tư được giao chủ đầu tư phải đáp ứng các tiêu chí nhất định theo quy định của Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản và các văn bản hướng dẫn liên quan.

Dự thảo cũng quy định rõ việc công bố thông tin, tiếp nhận hồ sơ và xét duyệt để đảm bảo quá trình giao chủ đầu tư được thực hiện theo đúng quy định.

5. Lộ trình thực hiện

Dự thảo Nghị quyết được dự kiến trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 9 (tháng 4/2025). Nếu được Chính phủ đồng ý, Bộ Xây dựng sẽ phối hợp Bộ Tư pháp và các Bộ liên quan xây dựng Hồ sơ, Dự thảo Nghị quyết để trình Quốc hội.

Cập nhật: Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội thí điểm về một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội

Bộ Xây dựng đang chủ trì soạn thảo Nghị quyết của Quốc hội thí điểm về một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội (NƠXH) nhằm tháo gỡ vướng mắc và thúc đẩy nguồn cung nhà ở cho người thu nhập thấp. Nghị quyết này được xây dựng với sự phối hợp của các Bộ, ngành và cơ quan liên quan, tập trung vào các chính sách ưu đãi về tài chính, đất đai, thủ tục đầu tư và hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực nhà ở xã hội.

Dự thảo này đưa ra nhiều điều chỉnh quan trọng về cơ chế giao chủ đầu tư, nguồn vốn phát triển NƠXH, ưu đãi tài chính và thủ tục đầu tư xây dựng.

1. Mục tiêu hướng đến của của nghị quyết:

  • Đẩy nhanh tiến độ xây dựng NƠXH bằng cách đơn giản hóa thủ tục đầu tư.
  • Tạo cơ chế linh hoạt hơn cho doanh nghiệp tham gia đầu tư.
  • Mở rộng nguồn vốn phát triển NƠXH, bao gồm Quỹ phát triển nhà ở xã hội quốc gia.
  • Tăng cường hỗ trợ người dân có nhu cầu mua hoặc thuê nhà ở xã hội.

2. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng

2.1. Phạm vi điều chỉnh

Nghị quyết này thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù về phát triển nhà ở xã hội trên phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên, không áp dụng đối với dự án NƠXH sử dụng vốn đầu tư công​.

Các nội dung thí điểm bao gồm:

  • Thành lập Quỹ phát triển nhà ở xã hội quốc gia.
  • Giao chủ đầu tư không qua đấu thầu.
  • Cơ chế hỗ trợ giải phóng mặt bằng và hạ tầng kỹ thuật.
  • Quy định lợi nhuận định mức tối đa cho chủ đầu tư.

2.2. Đối tượng áp dụng

Dự thảo Nghị quyết áp dụng đối với:

  • Cơ quan nhà nước liên quan đến phát triển và quản lý NƠXH.
  • Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (triển khai nhà ở cho công nhân).
  • Doanh nghiệp, hợp tác xã, cá nhân đầu tư xây dựng NƠXH.
  • Người dân thuộc diện được hưởng chính sách NƠXH​.

3. Những cơ chế, chính sách đặc thù trong Dự thảo Nghị quyết

3.1. Thành lập Quỹ phát triển nhà ở xã hội quốc gia

Dự thảo đề xuất thành lập Quỹ phát triển nhà ở xã hội quốc gia, là quỹ tài chính ngoài ngân sách nhà nước với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước cấp và các nguồn vốn hợp pháp khác. Quỹ này có chức năng​:

  • Hỗ trợ lãi suất cho vay không yêu cầu thế chấp đối với người dân.
  • Hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư xây dựng NƠXH bằng hình thức tín dụng ưu đãi.
  • Quản lý quỹ nhà ở xã hội trên cả nước.

3.2. Giao chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội không qua đấu thầu

Theo Dự thảo, các cơ quan sau được quyền giao chủ đầu tư dự án NƠXH mà không cần đấu thầu​:

  • Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được giao chủ đầu tư cho các dự án NƠXH trên địa bàn.
  • Bộ Quốc phòng, Bộ Công an giao chủ đầu tư cho các dự án NƠXH dành cho lực lượng vũ trang.
  • Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam giao chủ đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân bằng nguồn tài chính công đoàn.

Điều này giúp đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án, tránh tình trạng kéo dài do thủ tục đấu thầu phức tạp.

3.3. Hỗ trợ giải phóng mặt bằng và phát triển hạ tầng

Dự thảo quy định sử dụng ngân sách nhà nước và các nguồn vốn hợp pháp khác để​:

  • Hỗ trợ giải phóng mặt bằng cho các dự án NƠXH.
  • Đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật và xã hội đi kèm với NƠXH.

Chính sách này giúp giảm chi phí ban đầu cho chủ đầu tư, khuyến khích doanh nghiệp tham gia phát triển NƠXH.

3.4. Quy định về lợi nhuận định mức tối đa cho chủ đầu tư

Dự thảo đưa ra quy định lợi nhuận định mức tối đa mà chủ đầu tư được hưởng đối với phần diện tích xây dựng NƠXH là 13% tổng chi phí đầu tư xây dựng​.

Việc giới hạn lợi nhuận giúp kiểm soát giá thành nhà ở xã hội, đảm bảo mức giá phù hợp cho người thu nhập thấp.

4. Tác động dự kiến của Dự thảo Nghị quyết

4.1. Đối với chủ đầu tư

Dự thảo Nghị quyết mang lại nhiều lợi ích quan trọng cho các doanh nghiệp tham gia đầu tư phát triển nhà ở xã hội. Một trong những điểm đáng chú ý là chính sách hỗ trợ tín dụng ưu đãi, giúp chủ đầu tư dễ dàng tiếp cận nguồn vốn với lãi suất thấp hơn so với thị trường. Điều này góp phần giảm gánh nặng tài chính và thúc đẩy việc triển khai các dự án nhanh chóng hơn.

Bên cạnh đó, cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu giúp rút ngắn thời gian lựa chọn nhà đầu tư, tránh tình trạng chậm trễ do các thủ tục hành chính kéo dài. Việc này tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp sớm triển khai dự án, đáp ứng nhu cầu nhà ở xã hội ngày càng cao.

Ngoài ra, chủ đầu tư còn được hỗ trợ giải phóng mặt bằng và đầu tư hạ tầng kỹ thuật, góp phần giảm chi phí ban đầu và tăng hiệu quả kinh doanh. Chính sách này giúp doanh nghiệp giảm áp lực về tài chính và đảm bảo tiến độ thi công các dự án nhà ở xã hội theo kế hoạch.

4.2. Đối với người dân

Dự thảo Nghị quyết cũng mang lại nhiều tác động tích cực đối với người dân, đặc biệt là các nhóm đối tượng có thu nhập thấp. Nhờ các chính sách kiểm soát giá thành và ưu đãi cho chủ đầu tư, giá bán và giá thuê nhà ở xã hội được điều chỉnh ở mức hợp lý hơn, giúp nhiều người có cơ hội sở hữu hoặc thuê nhà với chi phí phù hợp với khả năng tài chính.

Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp giúp người mua nhà giảm gánh nặng tài chính. Nhờ thời gian vay kéo dài, người thu nhập thấp có thể tiếp cận nhà ở dễ dàng hơn mà không phải lo lắng về áp lực trả nợ trong thời gian ngắn.

Ngoài việc hỗ trợ tài chính, Dự thảo còn tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án nhà ở xã hội. Điều này không chỉ giúp mở rộng nguồn cung mà còn mang đến nhiều lựa chọn hơn cho người dân, từ đó góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và ổn định thị trường nhà ở xã hội trong thời gian tới.

5. Kết luận

Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế thí điểm phát triển nhà ở xã hội mang lại nhiều thay đổi quan trọng nhằm đẩy nhanh tốc độ triển khai dự án NƠXH, hỗ trợ tài chính cho chủ đầu tư và giúp người dân tiếp cận nhà ở với chi phí hợp lý hơn.

Với các cơ chế như thành lập Quỹ phát triển NƠXH, giao chủ đầu tư không qua đấu thầu, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và kiểm soát lợi nhuận, chính sách này được kỳ vọng sẽ giúp thị trường NƠXH phát triển mạnh mẽ hơn​ trong thời gian tới.

Bảo vệ dữ liệu cá nhân theo pháp luật Việt Nam: Điều bạn cần biết để an toàn

Dữ liệu cá nhân – nghe thì “luật” đấy, nhưng thực ra nó gần gũi hơn bạn nghĩ. Tên, số điện thoại, email, hay thậm chí ảnh selfie bạn đăng lên mạng đều là dữ liệu cá nhân. Trong thời đại công nghệ, những thông tin này quý như vàng, nhưng cũng dễ bị “đánh cắp” nếu không cẩn thận. May mắn thay, pháp luật Việt Nam đã có những quy định để bảo vệ chúng ta. Bài viết này sẽ giới thiệu cơ bản về bảo vệ dữ liệu cá nhân theo luật Việt Nam, giúp bạn – dù là người mới hay sinh viên luật – hiểu rõ hơn nhé!

Dữ liệu cá nhân là gì? Đừng nghĩ xa xôi!

Theo Nghị định 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân (có hiệu lực từ 1/7/2023), hiểu đơn giản rằng dữ liệu cá nhân là thông tin liên quan đến một người cụ thể, như họ tên, ngày sinh, số CCCD, địa chỉ, hay cả thông tin nhạy cảm như sức khỏe, tài khoản ngân hàng. Nói đơn giản, bất cứ thứ gì “nói lên bạn là ai” đều là dữ liệu cá nhân.

Ví dụ nhé: Bạn đăng ký một ứng dụng mua sắm online, điền tên, số điện thoại, địa chỉ giao hàng. Đó là dữ liệu cá nhân. Hay khi bạn đi khám bệnh, bác sĩ ghi lại tình trạng sức khỏe – đó cũng là dữ liệu cá nhân, nhưng nhạy cảm hơn. Pháp luật bảo vệ để đảm bảo những thông tin này không bị lạm dụng.

Pháp luật Việt Nam bảo vệ dữ liệu cá nhân thế nào?

Trước đây, pháp luật Việt Nam chưa có quy định riêng về dữ liệu cá nhân, mà chỉ rải rác trong các văn bản như Bộ luật Dân sự 2015 hay Luật An toàn thông tin mạng 2015. Nhưng từ khi Nghị định 13/2023/NĐ-CP ra đời, mọi thứ rõ ràng hơn. Đây là văn bản đầu tiên tập trung vào bảo vệ dữ liệu cá nhân, áp dụng cho cả cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức.

Luật yêu cầu:

  • Đồng ý trước khi thu thập: Ai muốn lấy dữ liệu của bạn phải xin phép, trừ vài trường hợp đặc biệt (chẳng hạn như cơ quan nhà nước điều tra).
  • Sử dụng đúng mục đích: Dữ liệu chỉ được dùng cho việc đã nói rõ, không “tự ý” làm chuyện khác.
  • Bảo mật an toàn: Doanh nghiệp phải có biện pháp giữ thông tin của bạn không bị rò rỉ.

Ví dụ: Bạn tải app học tiếng Anh, họ hỏi “Cho phép dùng số điện thoại để gửi thông báo không?”. Bạn đồng ý, họ chỉ được gửi tin học tập, không được tự ý bán số của bạn cho bên quảng cáo kem đánh răng, hoặc cho bọn lừa đảo ở bên Campuchia chẳng hạn. Nếu làm sai, họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Ví dụ thực tế: Khi dữ liệu cá nhân bị “lạm dụng”

Để bạn thấy rõ luật quan trọng thế nào, mình kể một câu chuyện nhé. Giả sử bạn Hùng đăng ký thẻ thành viên ở một siêu thị. Hùng điền tên, số điện thoại, email để được giảm giá. Nhưng vài tuần sau, Hùng nhận hàng tá tin nhắn quảng cáo từ các công ty bảo hiểm, bất động sản – toàn chỗ anh chẳng hề biết! Hóa ra siêu thị đã bán thông tin của Hùng mà không xin phép. Đây là hành vi vi phạm luật, vì theo Nghị định 13/2023, siêu thị phải được Hùng đồng ý trước khi chia sẻ dữ liệu.

Một ví dụ khác: Chị Lan đi làm đẹp ở spa, để lại số điện thoại. Sau đó, thông tin của chị bị lộ, kẻ xấu dùng để lừa đảo, nhắn tin giả danh ngân hàng đòi nợ. Nếu spa không bảo mật dữ liệu tốt, họ phải chịu trách nhiệm.

Quyền của bạn trong việc bảo vệ dữ liệu

Luật không chỉ “bắt” doanh nghiệp mà còn trao quyền cho bạn. Theo Nghị định 13/2023/NĐ-CP, bạn có thể:

  • Yêu cầu xóa dữ liệu: Nếu không muốn họ giữ thông tin nữa, bạn có quyền đòi xóa.
  • Kiểm tra dữ liệu: Bạn được hỏi họ đang dùng thông tin của mình để làm gì.
  • Khiếu nại nếu bị lạm dụng: Nếu dữ liệu bị dùng sai, bạn có thể báo cơ quan chức năng.

Ví dụ: Bạn thấy một ứng dụng cứ gửi tin nhắn rác dù bạn không đồng ý, bạn có thể yêu cầu họ xóa số điện thoại của mình. Nếu họ không làm, bạn báo lên phía công an – họ sẽ xử lý.

Tại sao cần quan tâm?

Với sinh viên luật, hiểu về bảo vệ dữ liệu cá nhân là bước đầu để nắm luật trong thời đại số. Còn với người bình thường, nó giúp bạn tự bảo vệ mình. Dữ liệu cá nhân bị lộ không chỉ phiền toái mà còn nguy hiểm – từ lừa đảo đến mất tiền. Chỉ cần cẩn thận khi chia sẻ thông tin và biết quyền của mình, bạn đã an toàn hơn nhiều.

Giữ dữ liệu như giữ ví tiền – Đừng chủ quan kẻo tiền mất tật mang

Bảo vệ dữ liệu cá nhân theo pháp luật Việt Nam không phải chuyện xa vời, mà là điều bạn gặp hàng ngày. Từ việc đăng ký app, đi khám bệnh, đến mua sắm, luật đều có cách giữ thông tin của bạn an toàn. Hãy nhớ: dữ liệu cá nhân giống như chiếc ví – đừng để ai “móc” mất, và nếu có chuyện gì, pháp luật đứng về phía bạn!

Tác giả: Hà Mạnh Tú

Luật sư cấp cao Công ty TNHH Công nghệ Huawei Việt Nam

Áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại đối với sản phẩm đường mía (AC02.AD13-AS01)

Giới thiệu tổng quan

Bộ Công Thương đã áp dụng biện pháp chống lẩn tránh phòng vệ thương mại (PVTM), bao gồm chống bán phá giá (CBPG) và chống trợ cấp (CTC), đối với sản phẩm đường mía nhập khẩu từ Lào, Campuchia, Indonesia, Malaysia, và Myanmar. Đây là biện pháp nhằm ngăn chặn tình trạng lẩn tránh các biện pháp phòng vệ trước đó, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh cho ngành sản xuất trong nước. Biện pháp này chính thức có hiệu lực từ ngày 9/8/2022 và dự kiến kéo dài đến ngày 15/6/2026, trừ trường hợp có thay đổi theo quy định pháp luật.

1. Thông tin vụ việc

1.1. Bên yêu cầu

  • Công ty Cổ phần Mía đường Sơn Dương
  • Công ty Cổ phần Mía đường Sơn La
  • Công ty Cổ phần TNHH Công nghiệp KCP Việt Nam
  • Công ty Cổ phần Mía đường Cần Thơ
  • Công ty Cổ phần Mía đường 333
  • Công ty Cổ phần Mía đường Sóc Trăng

1.2. Hàng hóa bị áp dụng biện pháp chống lẩn tránh PVTM

  • Tên khoa học: Đường sacarose (sucrose)
  • Tên gọi thông thường: Đường cát, đường mía, đường kính, đường thô, đường trắng, đường tinh luyện, đường RE, đường RS
  • Phân loại mã HS: 1701.13.00, 1701.14.00, 1701.91.00, 1701.99.10, 1701.99.90, 1702.90.91
    (Danh sách mã HS có thể được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tế)

1.3. Xuất xứ hàng hóa bị áp dụng biện pháp PVTM

  • Campuchia, Lào, Malaysia, Myanmar, Indonesia

2. Mức thuế và thời gian áp dụng biện pháp

Mức thuế CBPG và CTC

Bảng 1 (AC02.AD13-AS01): Mức thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp (áp dụng từ 9/8/2022 đến 15/6/2026)

Quốc gia

Thuế CBPG

Thuế CTC

Campuchia

42,99%

4,65%

Indonesia

42,99%

4,65%

Lào

42,99%

4,65%

Malaysia

42,99%

4,65%

Myanmar

42,99%

4,65%

Loại trừ áp dụng biện pháp PVTM đối với:

Hàng hóa được sản xuất bởi các công ty sau không thuộc phạm vi áp dụng biện pháp:

  • Kampong Speu Sugar Co., Ltd.
  • Kasekam Youveakchun Svay Rieng Co., Ltd.
  • PT. Kebun Tebu Mas
  • Mitr Lao Sugar Company Limited
  • Savannakhet Sugar Corporation
  • TTC Attapeu Sugar Cane Sole Co., LTD
  • Than Daung OO Company Limited
  • Ngwe Yi Pale Sugar Company Limited

Thời hạn áp dụng

  • Thời gian hiệu lực: Từ 9/8/2022 đến 15/6/2026
  • Gia hạn và rà soát: Có thể thay đổi theo các quyết định bổ sung của Bộ trưởng Bộ Công Thương.

3. Tình trạng vụ việc hiện nay

  • Hiện tại: Biện pháp chống lẩn tránh biện pháp PVTM đang được áp dụng đối với hàng hóa từ các quốc gia nêu trên.

4. Văn bản pháp luật liên quan đến vụ việc

  • Quyết định 1407/QĐ-BCT năm 2024: Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới.
  • Quyết định 494/QĐ-BCT năm 2024: Gia hạn thời hạn rà soát nhà xuất khẩu mới.

Các sự kiện đáng chú ý

Thời gian

Sự kiện

21/09/2021

Khởi xướng điều tra

01/08/2022

Ban hành quyết định áp dụng biện pháp chống lẩn tránh PVTM

28/03/2023

Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới

11/12/2023

Ban hành quyết định rà soát nhà xuất khẩu mới

11/03/2024

Gia hạn thời hạn rà soát nhà xuất khẩu mới

10/06/2024

Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới

Xem thêm: Toàn cảnh áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại tại Việt Nam – 29 vụ việc từ 2009 đến 2024

Ra mắt tool tính Thuế chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam

Kính chào Quý khách hàng,

Caselaw Việt Nam trân trọng thông báo tính năng mới: Tính thuế Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam tại https://caselaw.vn/tinh-thue-chong-ban-pha-gia.

Tính năng Tính thuế Chống bán phá giá sẽ là công cụ hữu ích giúp cho các nhà xuất khẩu nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam thực hiện các công việc vốn trước đây đòi hỏi nhiều thời gian để nghiên cứu quy định pháp luật và tham vấn luật sư:

(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam; 

(ii) Biết được mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và Tính số tiền thuế Chống bán phá giá;

(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS;

Theo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 ngày 06/04/2016 của Quốc Hội, Thuế chống bán phá giá là thuế nhập khẩu bổ sung được áp dụng trong trường hợp hàng hóa bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong. 

Trang dữ liệu thông tin pháp lý về Mã HS của Caselaw Việt Nam cập nhật các mã HS hàng hóa bị áp thuế chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam. Tính đến tháng 12/2020, Việt Nam đã áp thuế chống bán phá giá đối 7 nhóm sản phẩm với 74 mã HS hàng hóa có xuất xứ từ 6 quốc gia: Trung Quốc, Đài Loan, Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan.

(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam

Để biết mã HS của hàng hóa nhập khẩu có bị đánh thuế Chống bán phá giá hay không, Quý khách hàng truy cập trang Tính Thuế chống bán phá giá. Sau đó nhập mã HS 8 số và bấm kiểm tra.
 

Kết quả kiểm tra sau khi nhập mã HS 8 số:

(ii) Xem mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và tính số tiền thuế Chống bán phá giá:

Dữ liệu tính thuế và công thức tính thuế Chống bán phá giá được các chuyên gia cố vấn của Caselaw Việt Nam tổng hợp chính xác dựa trên các quyết định về áp thuế chống bán phá giá của Bộ Công thương. Sau khi nhập đủ các thông tin vào các ô dữ liệu và bấm nút tính thuế, bạn sẽ biết được chính xác số thuế Chống bán phá giá phải nộp. Kết quả hiển thị đi kèm với các thông tin về: mức thuế suất, thời gian áp thuế, quốc gia bị áp thuế và các công ty xuất khẩu. 

(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS:

Tại trang thông chi tiết của mỗi mã HS, ví dụ như mã 29224220, ngoài thông tin về các loại thuế suất như: thuế VAT, thuế nhập khẩu ưu đãi, thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các hiệp định FTA(s), Quý khách hàng sẽ được xem thêm thuế Chống bán phá giá theo từng thời gian, quốc gia xuất khẩu, công ty xuất khẩu.

Caselaw Việt Nam luôn mong muốn mang đến cho Quý khách hàng các tiện ích nhằm hỗ trợ hiệu quả cho công việc. 

Chúng tôi rất vui khi được đồng hành cùng Quý khách hàng.

Trân trọng,

Caselaw Việt Nam Team

7 mẫu hợp đồng được sử dụng để thực thi quyền sử dụng đất (đặt cọc, góp vốn, cho mượn, chuyển nhượng, thế chấp, hợp tác kinh doanh...)

1. Thỏa Thuận Đặt Cọc Mua Đất Nông Nghiệp

2. Hợp Đồng Hợp Tác Kinh Doanh Góp Vốn Bằng Giá Trị Quyền Sử Dụng Đất

3. Hợp Đồng Chuyển Nhượng Quyền Sử Dụng Đất Và Tài Sản Gắn Liền Trên Đất (Xây Dựng Cửa Hàng Xăng Dầu)

4. Hợp Đồng Cho Mượn Đất

5. HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở (MS 01)

6. HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC Chuyển nhượng quyền sử dụng đất (MS 01)

7. HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP Quyền sử dụng đất và căn hộ (MS 01)

(Dự thảo án lệ số 1) Quyết định GĐT số 01/2017/KDTM-GĐT ngày 1/3/2017 về công nhận hợp đồng thế chấp QSDĐ mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế chấp

Án lệ số  /2017/AL về công nhận hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế chấp

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày…  tháng … năm 2017 và được công bố theo Quyết định số …/QĐ-CA ngày … tháng … năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 01/2017/KDTM-GĐT ngày 01-3-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” tại thành phố Hà Nội giữa nguyên đơn là Ngân hàng A với bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn B; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 10 người.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 4 phần “Nhận định của Toà án”

Khái quát nội dung của án lệ:

- Tình huống án lệ 1:

Một bên thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nhưng trên đất còn có tài sản thuộc sở hữu của người khác;hình thức và những nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật.

- Giải pháp pháp lý 1:

Trường hợp này, Tòa án phải xác định hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật.

- Tình huống án lệ 2:

Bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản gắn liền với đất không thuộc sở hữu của người sử dụng đất.

- Giải pháp pháp lý 2:

Trường hợp này, khi giải quyết Tòa án phải dành cho chủ sở hữu nhà trên đất được quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó nếu họ có nhu cầu.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

Điều 342 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương ứng với Điều 318 Bộ luật dân sự năm 2015); Điều 715, Điều 721Bộ luật Dân sự năm 2005; mục 4 khoản 19 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22-02-2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (pháp điển hóa tại khoản 2 Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2015).

Từ khóa của án lệ:

“Thế chấp quyền sử dụng đất”; “Trên đất có tài sản của người khác”; “Thỏa thuận xử lý tài sản thế chấp”; “Ưu tiên nhận chuyển nhượng”.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Tại đơn khởi kiện đề ngày 6/10/2011 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là Ngân hàng A trình bày:

Ngày 16-6-2008, Ngân hàng A (sau đây viết tắt là Ngân hàng)và Công ty trách nhiệm hữu hạnB (sau đây viết tắt là Công ty B) ký Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142. Theo đó, Ngân hàng cho Công ty B vay 10.000.000.000 đồng và/hoặc bằng ngoại tệ tương đương. Mục đích cấp tín dụng để bổ sung vốn lưu động phục vụ kinh doanh theo nghề đăng ký của Công ty B.

Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân tổng cộng 3.066.191.933 đồng cho Công ty Btheo các Hợp đồng tín dụng kiêm Khế ước nhận nợ. Tính đến ngày 05-10-2011, Công ty Bcòn nợ gốc và lãi của 03 Khế ước là 4.368.570.503 đồng (trong đó nợ gốc là 2.943.600.000 đồng, nợ lãi là 1.424.970.503 đồng).

Tài sản bảo đảm cho khoản vay nêu trên là nhà, đất [thửa đất số 43, tờ bản đồ số 5I-I-33 (1996)] tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H và bà N (theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 10107490390 do Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 07-12-2000), do ông H, bà N thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Hợp đồng thế chấp này được Phòng công chứng số 6 thành phố Hà Nội công chứng ngày 11-6-2008 và Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm ngày 11-6-2008.

Ngày 30-10-2009, Ngân hàng và Công ty Btiếp tục ký Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200900583. Theo đó, Ngân hàng cho Công ty B vay 180.000 USD. Mục đích vay để thanh toán tiền vận chuyển hàng hóa lô hàng xuất khẩu; thời hạn vay 09 tháng; lãi suất vay 5,1%/năm; lãi suất quá hạn bằng 150%.

Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân đủ số tiền vay 180.000 USD cho Công ty B. Công ty B mới trả cho Ngân hàng số tiền nợ gốc là 100.750 USD và số nợ lãi là 1.334,50 USD. Tính đến ngày 05-10-2011, Công ty Bcòn nợ gốc là 79.205 USD và nợ lãi là 16.879,69 USD. Tổng cộng cả nợ gốc và lãi là 96.120,69 USD.

Tài sản bảo đảm cho khoản vay của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-2009058 gồm:

- Lô hàng 19 xe ô tô tải thành phẩm trọng tải 1,75 tấn hiệu JMP mới 100% trị giá 2.778.750.000 đồng (do Công ty B lắp ráp theo phương thức hàng để kho đơn vị, Ngân hàng giữ Giấy chứng nhân đăng kiểm chất lượng xe xuất xưởng) do Công ty Bthế chấp theo Hợp đồng thế chấpsố 219/2009/EIBHBT-CC ngày 29-10-2009. Hợp đồng thế chấp này được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Cục đăng ký giao dịch bảo đảm thành phố Hà Nội ngày 02-11-2009;

- Số dư tài khoản tiền gửi kỳ hạn 03 tháng trị giá 1.620.000.000 đồng do Ngân hàng phát hành. Do Công ty Bđã thực hiện được một phần nợ vay nên Ngân hàng đã giải chấp số tiền 1.620.000.000 đồng tiền gửi trong tài khoản tiết kiệm của Công ty B, tương ứng với số nợ đã thanh toán.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Ngân hàng xác nhận: đối với khoản vay 180.000 USD, Công ty B đã trả xong nợ gốc; chỉ còn lại nợ lãi là 5.392,81 USD; tài sản bảo đảm là 19 xe ô tô, hiện đã bán 18 chiếc, còn lại 01 chiếc; đề nghị Tòa án cho xử lý nốt chiếc xe còn lại để thu hồi nợ vay còn thiếu.

Ngân hàng yêu cầu Tòa án buộc:

- Công ty Bthanh toán số nợ gốc và lãi bằng VNĐ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 là 4.368.570.503 đồng;

- Công ty Bthanh toán 5.392,81 USD nợ lãi bằng USD của Hợp đồng tín dụng số 1702-LVA-200900583.

Trong trường hợp, Công ty Bkhông thanh toán hoặc thanh toán không đủ đề nghị Tòa án phát mãi tài sản thế chấp là:

- Quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H và bà N;

- 01 xe ô tô tải thành phẩm, trọng tải 1,75 tấn, hiệu JMP mới 100% do Công ty Blắp ráp theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 219/2009/EIBHBT- CC ngày 29-10-2009.

Đại diện bị đơn là anh T - Tổng Giám đốc Công ty B trình bày: Thừa nhận số tiền nợ gốc, lãi và tài sản thế chấp như Ngân hàng trình bày nhưng đề nghị Ngân hàng cho trả nợ dần.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông H và bà N trình bày: Ông bàthừa nhận ký hợp đồng thế chấp nhà, đất số 432 nêu trên để bảo đảm cho khoản vay tối đa là 3.000.000.000 đồng của Công ty B. Hợp đồng thế chấp được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm. Gia đình ông H và bà N cũng đã hỗ trợ Công ty trả được gần 600.000.000 đồng cho khoản vay có tài sản thế chấp là nhà và đất của ông bà. Ông, bà đề nghị Ngân hàng gia hạn khoản nợ của Công ty Bđể Công ty có thời gian phục hồi sản xuất, thu xếp trả nợ cho Ngân hàng; đề nghị Tòa án không triệu tập các con trai, con dâu, con gái và con rể của ông bà đến Tòa án làm việc.

Anh P thay mặt cho những người con, cháu của ông H, bà N đang sống tại nhà, đất số 432 trình bày:

Cuối năm 2010, anh mới biết bố mẹ anh thế chấp nhà đất của gia đình đang ở để bảo đảm cho khoản vay của Công ty B. Sau khi ông H, bà N được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000, anh Pvà anh Q đã bỏ tiền ra xây dựng thêm một ngôi nhà 3,5 tầng trên đất và 16 người trong gia đình hiện đang ở tại nhà, đất số 432 nêu trên. Khi ký hợp đồng thế chấp, Ngân hàng không hỏi ý kiến các anh và những người đang sinh sống tại nhà, đất này. Do đó, anh đề nghị Tòa án không công nhận hợp đồng thế chấp và xem xét số tiền 550.000.000 đồng mà anh em các anh đóng góp vào trả nợ cho Công ty B theo Hợp đồng tín dụng có tài sản bảo đảm là nhà, đất số 432 nêu trên nhưng Ngân hàng tự ý trừ vào khoản vay ngoại tệ có tài sản bảo đảm là 19 xe ô tô là không đúng.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24/9/2013, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng A đối với Công ty TNHH B.

- Buộc Công ty TNHH B phải thanh toán trả cho Ngân hàng A số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142, bao gồm:nợ gốc 2.813.600.000 đồng; nợ lãi trong hạn 2.080.977.381 đồng; nợ lãi quá hạntính đến ngày 23-9-2013 1.036.575.586đồng; tiền lãi phạt chậm trảtính đến ngày 23-9-2013123.254.156 đồng; Tổng cộng:  6.054.407.123 đồng.

- Buộc Công ty TNHHBphải thanh toán trả cho Ngân hàng A số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800583, gồm số tiền nợ lãi quá hạn là 5.392,81 USD.

Trong trường hợp Công ty TNHH Bkhông trả nợ hoặc trả không đủ số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142, thì Ngân hàng Acó quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật là quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại thửa số 43, tờ bản đồ số 5I-I-33 (1996) theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 10107490390 do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 07-12-2000 cho ông H và bà N tại địa chỉ số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội để thu hồi nợ…

Trường hợp Công ty TNHH Bkhông trả nợ hoặc trả không đủ số tiền nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800583, thì Ngân hàng A có quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo đảm là 01 chiếc xe ô tô tải, trọng tải 1,75 tấn hiệu JMP do Công ty TNHH Blắp ráp theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 219/2009/EIBHBT-CC ngày 29-10-2009 để thu hồi nợ.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 07-7-2014, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định:

Giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về Hợp đồng tín dụng, về các khoản tiền vay và tiền Công ty B phải trả Ngân hàng A;hủy phần quyết định của Bản án sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về  phần hợp đồng thế chấp, bảo đảm của người thứ 3, cụ thể:

… Hủy phần quyết định về hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của người thứ 3 (nhà đất số 432, tổ 28 phường E, quận G, thành phố Hà Nội) ký ngày 11-6-2008 tại Phòng công chứng số 6 thành phố Hà Nội và đăng ký tài sản bảo đảm tại Sở tài nguyên và môi trường thành phố Hà Nội ngày 11-6-2008…

Giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xác minh, thu thập chứng cứ và xét xử lại, xác định phần tài sản hợp pháp thuộc sở hữu của ông H, bà N làm tài sản thế chấp bảo đảm cho Công ty TNHH B đối với khoản tiền vay ở Ngân hàng A theo Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 ngày 16-6-2008.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, Ngân hàng, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có văn bản đề nghị xem xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Kháng nghị giám đốc thẩm số 14/2016/KDTM-KN ngày 12-4-2016, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 7-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 7-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xử hủy bản án phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Hồ sơ vụ án thể hiện, để đảm bảo cho khoản vay theo Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 ngày 16-6-2008 tại Ngân hàng của Công ty B do anh T là con trai ông H, bà N làm Giám đốc, thì ngày 11-6-2008, ông H và bà N đã thế chấp nhà, đất tại số 432,tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H, bà N theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Hợp đồng thế chấp này được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật.

[2] Theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 07/12/2000, thì nhà, đất tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội (sau đây viết tắt là nhà, đất số 432), gồm: diện tích đất ở 147,7 m2, diện tích nhà ở 85 m2, kết cấu nhà: bê tông và xây gạch; số tầng: 02+01. Khi thẩm định tài sản thế chấp, Ngân hàng biết trên diện đất 147,7 m2 ngoài căn nhà 02 tầng đã được đăng ký sở hữu, còn có căn nhà 3,5 tầng chưa đăng ký sở hữu nhưng Ngân hàng chỉ định giá quyền sử dụng đất và căn nhà 02 tầng đã đăng ký sở hữu với tổng giá trị nhà, đất là 3.186.700.000 đồng, mà không thu thập thông tin, tài liệu để xem xét làm rõ nguồn gốc cũng như ai là chủ sở hữu căn nhà 3,5 tầng là thiếu sót, không đảm bảo quyền lợi của các đương sự.

[3] Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 06-6-2012, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ, xác định: nhà, đất số 432 có 02 khối nhà (gồm: khối nhà thứ nhất: diện tích chiếm đất là 37,5 m2, chiều dài 5,9 m, chiều rộng 6,35 m; khối nhà thứ hai là nhà bê tông ba tầng có ban công, diện tích 61,3 m2) và hiện có 16 người thường trú, đăng ký dài hạn, thường xuyên sinh sống. Trước khi xét xử sơ thẩm, ngày 21-9-2013, anh P (con trai ông H, bà N) có Đơn kiến nghị gửi Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cho rằng sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000, do khó khăn về chỗ ở, năm 2002, gia đình ông H, bà N đã thống nhất để anh P và những người con của ông H, bà N bỏ tiền ra xây dựng thêm căn nhà 3,5 tầng bên cạnh căn nhà 02 tầng cũ trên thửa đất nói trên. Như vậy, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội biết trên thực tế hiện trạng thửa đất khi thế chấp đã có 02 căn nhà (căn nhà 02 tầng cũ và căn nhà 3,5 tầng) không đúng theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000 và Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Khi giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có xem xét yêu cầu của anh P và những người con ông H, bà N liên quan đến căn nhà 3,5 tầng nhưng Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội không quyết định rõ có xử lý phát mãi căn nhà 3,5 tầng hay không là không đúng, không đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự.

[4] Theo quy định tại mục 4 khoản 19 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm: “Trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất không đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì khi xử lý quyền sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được tiếp tục sử dụng đất theo như thỏa thuận giữa người sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Quyền và nghĩa vụ giữa bên thế chấp và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được chuyển giao cho người mua, người nhận chính quyền sử dụng đất”. Trong vụ án này, khi ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, bên thế chấp (ông H, bà N) và bên nhận thế chấp (Ngân hàng) đều biết rõ trên thửa đất của ông H, bà N ngoài căn nhà 02 tầng đã được đăng ký quyền sở hữu thì trên đất còn có một căn nhà 3,5 tầng chưa được đăng ký quyền sở hữu nhưng các bên chỉ thỏa thuận thế chấp tài sản gồm quyền sử dụng đất và căn nhà 02 tầng gắn liền với đất. Trường hợp trên đất có nhiều tài sản gắn liền với đất mà có tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất, có tài sản thuộc sở hữu của người khác mà người sử dụng đất chỉ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình, hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật thì hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm xác định Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008 có một phần bị vô hiệu (phần có căn nhà 3,5 tầng); xử hủy phần quyết định của bản án sơ thẩm về phần hợp đồng thế chấp và giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xác minh, thu thập chứng cứ xác định phần tài sản hợp pháp thuộc sở hữu của ông H, bà N và xét xử lại là không đúng. Lẽ ra, với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm cần xem xét, quyết định về xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và căn nhà thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông H, bà N theo quy định của pháp luật. Khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm cần yêu cầu đương sự cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh nguồn gốc hình thành căn nhà 3,5 tầng nêu trên để giải quyết vụ án bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho những người đã bỏ tiền ra xây dựng nhà và đang sinh sống tại đó. Đồng thời, Tòa án cấp phúc thẩm cần hỏi ý kiến, động viên, khuyến khích các đương sự thỏa thuận xử lý tài sản thế chấp. Trường hợp bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng diện tích đất mà trên đất có nhà thuộc sở hữu của người khác không phải là người sử dụng đất thì cần dành cho chủ sở hữu nhà đó được quyền ưu tiên nếu họ có nhu cầu mua (nhận chuyển nhượng).

[5] Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ theo thỏa thuận của các bên tại khoản 5.4 Điều 5 Hợp đồng tín dụng về lãi phạt chậm trả trên số lãi chưa thanh toán “lãi phạt chậm trả là quá 10 ngày kể từ ngày đáo hạn, mức lãi phạt là 2% trên số lãi chưa thanh toán; quá 30 ngày kể từ ngày đáo hạn, mức lãi phạt là 5% trên số lãi chưa thanh toán” để chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng buộc Công ty B phải trả số tiền lãi phạt chậm trả123.254.156 đồng là không đúng pháp luật, không được chấp nhận vì đây là lãi chồng lãi. Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện ra sai sót này, vẫn giữ nguyên quyết định này của bản án sơ thẩm cũng là không đúng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 337, khoản 3 Điều 343, Điều 345 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự;

1. Chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm số 14/2016/KDTM-KN ngày 12-4-2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

2.  Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 07-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội về vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng A, bị đơn là Công ty TNHH B và 10 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

3. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm đúng quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“[4] Trường hợp trên đất có nhiều tài sản gắn liền với đất mà có tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất, có tài sản thuộc sở hữu của người khác mà người sử dụng đất chỉ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình, hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật thì hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật…

…Trường hợp bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng diện tích đất mà trên đất có nhà thuộc sở hữu của người khác không phải là người sử dụng đất thì cần dành cho chủ sở hữu nhà đó được quyền ưu tiên nếu họ có nhu cầu mua (nhận chuyển nhượng).”

(nguồn: anle.toaan.gov.vn)