cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

02/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 923
  • 24

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc cưỡng chế tháo dỡ công trình

04-10-2012
TAND cấp huyện

Ngày 17/08/2011,UBND xã AT ban hành Quyết định số 64/QĐ-UBND, với nội dung yêu cầu tôi phải tháo dỡ toàn bộ hàng rào lưới B40 và 01 số cây xanh trồng trên diện tích đất đường đi công cộng do Nhà nước quản lý đối với hộ của tôi, ở tại Hội Tín, AT. Sau đó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã AT, huyện TA tổ chức thực hiện quyết định bằng việc cưỡng chế, theo biên bản cưỡng chế thu giữ tài sản ngày 22/08/2011. Việc Chủ tịch UBND xã AT ký quyết định và thực hiện quyết định nêu trên là không đúng thủ tục, trình tự theo quy định của pháp luật (vì không cho thời gian khiếu nại), gây thiệt hại tài sản và các quyền lợi của gia đình tôi. Trước đây tôi đã làm đơn yêu cầu UBND xã AT giải quyết nhưng không thực hiện.


09/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 1401
  • 43

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc giải quyết tranh chấp đất đai

25-09-2012
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện của ông NĐ_Trần Thành Tuấn đề ngày 07 tháng 05 năm 2012 có nội dung như sau: Vào ngày 16 tháng 05 năm 2011, BĐ_Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố CM ra Quyết định số 15/QĐ-UBND về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, quyết định có nội dung buộc ông tháo dở phần mái che đã xây dựng lấn sang phần đất bảo lưu ven sông của bà LQ_Lê Thị Bích Hằng diện tích 7,8m2 tọa lạc tại ấp 1, xã TV, thành phố CM, tỉnh CM. Ngày 27/02/2012 ông khiếu nại quyết định nêu trên đến Chủ tịch UBND TP CM, ngày 16/04/2012 UBND TP CM ra văn bản số 299/UBND-ĐT với nội dung trả lời khiếu nại của ông đã hết thời hiệu.


04/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 1856
  • 41

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

14-09-2012
TAND cấp huyện

Ông NĐ_Lê Phước Hoàn Cầu và bà LQ_Lữ Thị Thanh Tú trình bày: Nguồn gốc đất của ông được cấp năm 2007 tổng cộng diện tích 2.191,9m2; đất thổ cư 200m2; cây lâu năm là 1991,90m2. Khi đăng ký kê khai thì đã có nhà của ông LQ_Quang và nhà của ông LQ_Tài ở nhờ trên đó. Trên hồ sơ kỹ thuật khu đất có thể hiện 02 căn nhà của ông cho ông LQ_Tài ở giữ và nhà của gia đình ông LQ_Quang ở do gia đình ông cho ở nhờ, nên ông không có yêu cầu ông LQ_Quang ký tên khi làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đề nghị Tòa án nhân dân thành phố LX hủy Quyết định số 258/QĐ-UBND ngày 06/07/2011 của BĐ_Ủy ban nhân dân thành phố LX và làm rõ kết luận của Thanh tra và bản đề nghị của phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố LX về nội dung quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông sai như thế nào để có lý do thu hồi.


01/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 1655
  • 40

Khiếu kiện hành vi hành chính về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

14-09-2012
TAND cấp huyện

Ông Phạm Văn Trí đại diện cho ông NĐ_Võ Văn Tuấn và bà NĐ_Võ Thị Minh Trang trình bày: nguồn gốc đất diện tích khoảng 11.000m2 thửa số 930, 931, 932, 933 tờ bản đồ số 12 cùng tọa lạc tại ấp Phú Hòa, xã LĐ, thành phố TV, tỉnh TV là của ông bà, cha mẹ cho lại bà Võ Thị Bửu Ân và bà NĐ_Võ Thị Minh Trang canh tác từ sau giải phóng đến nay. Bà Võ Thị Bửu Ân do bị mất năng lực hành vi dân sự nên nhiều năm nay anh NĐ_Tuấn con bà Ân trực tiếp canh tác, cất nhà ở ổn định và đã đăng ký kê khai với Nhà nước thửa 930 diện tích 1.610m2, thửa số 933 diện tích 4.460m2. Phần còn lại do bà NĐ_Võ Thị Minh Trang khai thác canh tác, cất nhà, trồng cây trái, cây lâu năm, sử dụng ổn định trên 30 năm nay và có đăng ký kê khai với Nhà nước thửa 931, 932 diện tích 4.970m2


07/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 730
  • 15

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc giải quyết tranh chấp đất đai

16-07-2012
TAND cấp huyện

Ông NĐ_Hồ Văn Thắng trình bày: Phần đất hiện ông và chị LQ_Nguyễn Kiều Trang đang quản lý sử dụng có nguồn gốc chung của bà Phạm Thị Ba khai phá, sử dụng trước năm 1983. Năm 1983, bà Ba cắt một phần khoản 500m2 (tính số tròn – thuộc thửa số 181, tờ bản đồ số 5/1998, Phường X, thành phố CM) chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn Mai, ông Mai quản lý, sử dụng đến năm 1998 giao lại cho con là Nguyễn Văn Do. Năm 1998, ông Do chuyển nhượng lại cho chị LQ_Nguyễn Kiều Trang. Ngoài phần chuyển nhượng cho ông Mai, phần còn lại năm 1986 bà Ba chuyển nhượng cho ông Trần Văn Bê. Năm 1989, ông Bê chuyển nhượng lại cho ông Tăng Tùng Bàng, đến năm 1992 ông bàng chuyển nhượng lại cho bà Nghiêm Ánh Hồng. Ngày 04/08/1993 bà Nghiêm Ánh Hồng chuyển nhượng lại cho ông (NĐ_Hồ Văn Thắng).