cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

18/2013/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 816
  • 34

Yêu cầu tuyên bố di chúc vô hiệu

26-09-2013
TAND cấp tỉnh

Quá trình chung sống, ông Xứng và bà Tứ có tạo lập được tài sản chung là một ngôi nhà và đất tại tổ 11, phường PM, quận ST, TP ĐN. Hiện nay, đã có Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở được Nhà nước cấp ngày 15/10/2001, đứng tên ông Lê Văn Xứng (chết) và bà Ngô Thị Tứ. Nguồn gốc nhà, đất là do ông Lê Văn Xứng và bà Ngô Thị Tứ khai hoang, ở từ năm nào ông không xác định được. Tuy nhiên, sau khi ông Xứng chết, bà Tứ ở và quản lý ngôi nhà này. Thời gian xây dựng ngôi nhà, ông không nhớ cụ thể, nhưng trong quá trình bà Tứ ở, bà LQ_Lê Thị Phương ở Mỹ về Việt Nam và đứng ra xây lại nhà có cấu trúc là nhà đúc, có gác lửng. Thời gian này, bà Tứ có nuôi người cháu ngoại tên là BĐ_Nguyễn Thị Kim Trúc (con của bà Lê Thị Phẩm).


503/2007/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 815
  • 26

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

28-03-2007
TAND cấp tỉnh

Ngày 05/8/2004, tôi có ký hợp đồng cho bà BĐ_Phạm Thị Hà vay số tiền 1.342.350.000 đồng (tương đương 85.000 USD). Thực tế các bên đã giao nhận tiền từ ngày 25/5/2004. Ngày 27/8/2004 bà BĐ_Hà đã trả 141.867.000 đồng tiền lãi hai tháng theo mức lãi hai bên thỏa thuận miệng là 5%/tháng. Từ đó đến nay bà BĐ_Hà không tiếp tục trả vốn cũng như lãi. Đề nghị Tòa án buộc bà BĐ_Phạm Thị Hà trả các khoản sau: Nợ gốc: 1.342.350.000 đồng tương đương 85.500 USD. Trả tiền lãi phát sinh với mức lãi 1%/ tháng tạm tính từ ngày 26/7/2004 đến ngày 28/3/2007 là 429.552.000 đồng. Tổng cộng: 1.771.902.000 đồng.


02/2007/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1233
  • 15

Tranh chấp hợp đồng mua bán thức ăn cho tôm

19-12-2007
TAND cấp tỉnh

Trong năm 2006, ông BĐ_Trần Đắc Định đã nhiều lần đến công ty để mua hàng thức ăn nuôi tôm, những lần đầu ông BĐ_Định đều thanh toán tiền hàng cho công ty đầy đủ, tuy nhiên từ giữa năm 2006 đến tháng 11/2006 ông BĐ_Định mua hàng tổng cộng 9 lần với số tiền là 41.970.000đ nhưng không thanh toán tiền cho công ty. Công ty đã nhiều lần có thư và cử nhân viên đến đòi tiền nhưng ông BĐ_Định trốn tránh không chịu thanh toán số tiền nêu trên. Nay công ty khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Định phải trả số tiền nêu trên cho công ty.


07/2007/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1212
  • 21

Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

14-11-2007
TAND cấp tỉnh

Theo lời khai của các đương sự tại cấp sơ thẩm thì lúc sinh thời, Ông Du và bà BĐ_Sinh có các tài sản chung gồm: Căn nhà cấp 4A5 diện tích 78,96m2, nhà tạm 72,96m2 nằm trên thửa đất số 60, tờ bản đồ số 40, diện tích 20.939m2 trỏng đó co 300m2 đất thổ cư, Thửa đất số 101, tờ bản đồ số 40, diện tích 9.051m2 cùng tòạ lạc tại Ấp Trảng Lớn, HD, TT, tỉnh BR-VT. Đất đã được cấp giấy chứng nhận QSD đất năm 1995 đứng tên ông Trần Văn Du. Năm 2001 bà BĐ_Sinh làm thủ tục sang tên toàn bộ diện tích đất trên từ ông Du sang tên bà BĐ_Sinh. Năm 2004 đã làm thủ tục chuyển QSD thửa số 101 sang tên ông LQ_Trần Hữu Đinh.


31/2007/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 431
  • 10

Tranh chấp thừa kế

14-09-2007
TAND cấp tỉnh

Sau khi ông Thuận chết, năm 1987 bà nguyễn Thị Kề là vợ của ông Thuận muốn bán 03 căn nhà số 02 PĐ, NT, nên bà LQ_Tiênận đã gởi đơn đến Viện kiểm sát nhân dân tỉnh KH yêu cầu giải quyết. Tại biên bản làm việc ngày 22/12/1987, tại Viện Kiểm Sát tỉnh KH, Cha tôi là ông Vương phước Trung vẫn khẳng định ông Duyên có để lại hai tờ di chúc cho ông toàn bộ tài sản: Nhà, đất tại 02A LHP, PH, NT và 02 trong số 03 căn nhà tại số 02 PĐ, NT. Tại Viện kiểm sát tỉnh KH, ông Trung tự nguyện giao toàn bộ tài sản là nhà và đất tại 02 PĐ, NT cho bà Nguyễn Thị Kề (vợ ông Thuận) cùng các con ông Thuận, kèm theo biên bản thỏa thuận tại Viện kiểm sát Cha tôi đã giao cho bà Kề cả hai bản di chúc của ông Vương Phước Duyên để lại nhà và đất số 02 PĐ NT cho cha tôi nên bà Kề và các con bà Kề mới bán được 03 căn nhà trên