cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

142/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Tái thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 737
  • 19

Tranh chấp quyền sử dụng đất

28-03-2014

Ông NĐ_Bảo và ông BĐ_Tâm đều là cháu nội của cụ Đỗ Văn Tấn. Bố ông BĐ_Tâm là ông Đỗ Văn Huấn, bố ông NĐ_Bảo là ông Đỗ Văn Tích. Khi cụ Tấn còn sống đã chia đất cho các con là ông Huấn, ông Tích, ông Thảnh từ khi chưa cải cách ruộng đất, còn phần đất gieo mạ và ao sử dụng chung. Khi cải cách ruộng đất cụ Tấn bị quy là địa chủ và diện tích dược mạ bị tịch thu, giao cho một số hộ canh tác. Nhưng do canh tác không có hiệu quả nên một số hộ dân đã không canh tác nữa và trong thời gian (năm 1965) này Hợp tác xã nông nghiệp Xuân Thọ đã giao cho gia đình bà LQ_Tít sử dụng tính bằng 0.9 sào đất phần trăm. Năm 1970 xã TN nắn lại đường trong xóm, có lấy đất lắp đường, sau đó gia đình cải tạo lại để làm ao thả cá và trồng cây ăn quả.


129/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 201
  • 1

Tranh chấp quyền sử dụng đất

26-03-2014

NHẬN THẤY: Theo đơn khởi kiện ngày 03/6/2010 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn- ông NĐ_Nguyễn Minh Chung trình bày: cha mẹ ông là cụ Nguyễn Nhạc và cụ Nguyễn Thị Diệc (đều đã chết) để lại tài sản là căn nhà trên diện tích đất 1,490m2 thuộc thửa 106, tờ bản đồ số 10, tại thôn Tân Mỹ, xã QP, huyện QT, tỉnh QB. Cha mẹ ông chết không để lại di chúc, các anh chị em ông thống nhất cho ông quản lý, sử dụng nhà đất nêu trên. Năm 2009, do Nhà nước mở đường đi qua một phần đất của ông, nên hàng rào cũ giáp với con đường mới mở không còn, khi ông tiến hành xây dựng lại hàng rào thì ông BĐ_Nguyễn Quang Đông và bà BĐ_Nguyễn Thị Kiên đến ngăn cản và cho rằng trong thửa đất ông đang quản lý, sử dụng có một phần đất của cha mẹ ông BĐ_Đông, bà BĐ_Kiên; đồng thời ông BĐ_Đông, bà BĐ_Kiên tự ý xây móng hàng rào và xây một tấm bia trên thửa đất ông đang quản lý, sử dụng. Nay ông yêu cầu ông BĐ_Đông, bà BĐ_Kiên phải tháo dỡ hàng rào và tấm bia ra khỏi thửa đất của gia đình ông.


115/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 855
  • 18

Tranh chấp quyền sử dụng đất

25-03-2014

Theo đơn khởi kiện ngày 20/1/2010 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông NĐ_Mạnh, bà NĐ_Miên trình bày: cha mẹ ông NĐ_Mạnh (là cụ Nguyễn Đính và cụ Nguyễn Thị Chấn) chết có để lại cho vợ chồng ông bà một thửa đất thổ cư khoảng 3 sào tương đương 1.500m2 (có tứ cận). Ở phía nam của thửa đất ông bà có xây dựng một ngôi nhà cách tường nhà ông Bảy 1,8m dùng để buôn bán nhỏ và sửa xe đạp. Ngày 20/4/1989 vợ chồng ông bà bán ngôi nhà này gắn liền với 80m2 đất cho bà Đào Thị Giàu (chị ruột bà NĐ_Miên) với giá 160.000 đồng. Hai bên xác lập giấy mua bán viết tay, không có chứng thực. Trong giấy mua bán có thỏa thuận, sau này bà Giàu không có nhu cầu sử dụng nữa thì sẽ nhượng lại cho ông bà.


112/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 183
  • 1

Tranh chấp quyền sử dụng đất

25-03-2014

Theo đơn khởi kiện ngày 5/9/2005 nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Văn Khoa trình bày: Năm 1959, cha mẹ ông lập di chúc chia tài sản cho các con (có xác nhận của chính quyền chế độ cũ). Theo di chúc ông được hưởng 1,6 công đất (1.600m2) trên đất có căn nhà hương quả (tại ấp 4, xã APT, huyện BT). Do lúc được chia đất ông còn đi học nên chị gái là bà Nguyễn Thị Mừng quản lý và sử dụng. Năm 1967, vợ chồng bà Mừng lén bán căn nhà hương quả trên đất cho bà Võ Thị Đâu và cho bà Đâu thuê đất với thời hạn 15 năm (1967 đến 1982).


104/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 345
  • 3

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

18-03-2014

Đơn khởi kiện ngày 21/8/2008 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông NĐ_Phạm Ngọc Thu và bà NĐ_Lê Thị Lý trình bày: Năm 1998, vợ chồng ông BĐ_Bảo, bà BĐ_Na chuyển nhượng cho vợ chồng ông NĐ_Thu, bà NĐ_Lý 500m2 đất tại thôn 1, xã CE, thành phố BMT với giá là 5.000.000 đồng. Việc chuyển nhượng có xác nhận của UBND xã, các bên đã giao đủ tiền và nhận đất.Vợ chồng ông NĐ_Thu đã nhiều lần yêu cầu làm thủ tục sang tên, nhưng vợ chồng ông BĐ_Bảo không thực hiện. Do đó, ông NĐ_Thu và bà NĐ_Lý khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Bảo và bà BĐ_Na phải hoàn tất thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong đó có 100m2 đất thổ cư và 400m2 đất nông nghiệp và chịu mọi chi phí phát sinh khi làm thủ tục sang tên cho ông NĐ_Thu, bà NĐ_Lý.