cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

94/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 277
  • 5

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

05-03-2014

Ngày 03/12/2008 bà NĐ_Nguyễn Thị Liên thỏa thuận sang nhượng thửa đất số 322-140 tờ bản đồ số 5 tọa lạc tại phường TT, quận BT, thành phố HCM, có diện tích 125m2 với giá tiền là 1.400.000.000 đồng của vợ chồng ông BĐ_Ngô Ngọc và bà BĐ_Tất Mỹ Linh. Bà NĐ_Nguyễn Thị Liên đã giao số tiền trên cho vợ chồng ông BĐ_Ngọc tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam. Ngày 04/2/2009 bà NĐ_Nguyễn Thị Liên cùng vợ chồng ông BĐ_Ngô Ngọc đến Phòng công chứng chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Ngày 09/3/2009 Ủy ban nhân dân quận BT đã đăng bộ tên bà NĐ_Nguyễn Thị Liên trên số đỏ, bà NĐ_Liên đã nộp thuế trước bạ nhưng vợ chồng ông BĐ_Ngô Ngọc không chịu giao đất. Bà NĐ_Nguyễn Thị Liên khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Ngô Ngọc phải thực hiện đúng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã ký.


65/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 887
  • 17

Tranh chấp quyền sử dụng đất

27-02-2014

Đất của vợ chồng chị tại xóm Phú Yên, xã PG, huyện HK, HT gồm 2 phần: Phần phía trước do vợ chồng chị mua của ủy ban nhân dân PG; phần phía sau do cha chồng của chị (ông Cộng) cho. Ngày 16/10/2007, vợ chồng chị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 186m2. Ngày 17/10/2009, anh BĐ_Lê Khắc Hồ (nhà liền kề) đã đập phá hàng rào, lấn chiếm một phần đất tại góc vườn phía sau và chặt phá một số cây cối của chị. Khi chị ngăn cản thì bị anh BĐ_Hồ đánh đập phải đi điều trị tại Bệnh viện HK với chi phí hết 3 triệu đồng, nên chị khởi kiện yêu cầu anh BĐ_Hồ trả lại diện tích đất lấn chiếm, đồng thời bồi thường toàn bộ thiệt hại về sức khỏe cũng như tài sản bị phá hoại. Tại phiên tòa sơ thẩm, chị rút yêu cầu bồi thường về các khoản thiệt hại, giữ nguyên yêu cầu buộc anh BĐ_Hồ trả lại diện tích đất lấn chiếm.


64/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 323
  • 8

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

27-02-2014

Ngày 30/11/2001, bà NĐ_Hân và bà NĐ_Vy chung tiền mua 2,5 công đất (2.500m2) đất trong 4.900m2 đất tại thửa số 62, tờ bản đồ 37 tại An Phước, phường 11, thành phố VT của vợ chồng ông BĐ_Trần Văn Thông và bà BĐ_Trần Thị Phụng với giá 25 cây vàng (10 cây vàng/công). Do ông BĐ_Thông chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ông BĐ_Thông đồng ý bớt cho bên mua 01 cây vàng để sau này làm thủ tục sang tên. Bên mua đã đã cọc 15 cây vàng, còn thiếu 9 cây. Ngày 30/7/2004, ông BĐ_Thông yêu cầu bên mua thanh toán nốt tiền nên bà NĐ_Hân trả tiếp 09 cây vàng. Các bà yêu cầu ông BĐ_Thông đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông BĐ_Thông cho biết ông LQ_Nguyễn Hữu Bảo cầm để tách thửa (ông LQ_Bảo là người nhận chuyển nhượng 2400m2).


615/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 465
  • 6

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

25-12-2013

Theo Đơn khởi kiện ngày 08/10/2007 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - cụ NĐ_Nguyễn Thị Khoa, đại diện theo ủy quyền là bà LQ_Dương Thị Bình (con gái cụ NĐ_Khoa) trình bày: Năm, 1940, cụ Dương Khối và cụ NĐ_Nguyễn Thị Khoa (cha mẹ bà LQ_Bình) tạo lập được khu vườn có diện tích 1.500m2; năm 1963 xây dựng được 02 gian nhà, nay tọa lạc tại phường AP, thành phố TK, tỉnh QN. Cha mẹ bà có con là ông Dương Văn Khối. Ông Khối có vợ là bà Trương Thị Đấu và con là Dương Thị Hoa. Sau khi bà Đấu chết, đến năm 1983, ông Khối lấy vợ là bà BĐ_Doãn Thị Hoa. Do hoàn cảnh của ông Khối, nên cha mẹ bà cho vợ chồng ông Khối ở khu đất trong vườn.


561/2013/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng mua bán vật tư nông nghiệp Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 391
  • 5

Tranh chấp hợp đồng mua bán vật tư nông nghiệp

28-11-2013

Vụ Đông - Xuân 2010-2011, vợ chồng anh LQ_Lê Ngọc Phụng và chị BĐ_Nguyễn Thị Chi mua vật tư nông nghiệp tại cửa hàng của bà NĐ_Lê Thị Hoa còn nợ số tiền 676.322.792 đồng. Hai bên thỏa thuận đến cuối vụ sẽ thanh toán hết, để đảm bảo cho khoản nợ, chị BĐ_Nguyễn Thị Chi có thế chấp cho bà NĐ_Hoa 01 giấy chứng nhận chuyền sử dụng đất đứng tên LQ_Phù Thị Ninh, LQ_Nguyễn Văn Hoàn, 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên LQ_Lê Văn Nhuận, LQ_Lê Thị Ánh Ngân và 01 giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh tên LQ_Lê Thị Ánh Ngân. Tuy nhiên đến cuối mùa vụ, anh LQ_Lê Ngọc Phụng và chị BĐ_Nguyễn Thị Chi không trả tiền, bà đã yêu cầu trả nhiều lần nhưng vợ chồng anh LQ_Phụng, chị BĐ_Chi cứ hẹn trả nhưng lại không trả. Nay bà yêu cầu vợ chồng anh LQ_Phụng, chị BĐ_Chi và vợ chồng ông LQ_Nhuận, bà LQ_Ngân liên đới trả cho bà số tiền 676.322.792 đồng và tính lãi suất theo quy định của pháp luật.