cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

197/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 211
  • 5

Ly hôn

23-08-2006

Bà Nguyễn Thị Định và ông Vũ Văn Kính đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân quận BĐ trên cơ sở tự nguyện. Vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 1996 thì phát sinh mâu thuẫn, từ tháng 5/2003, mâu thuẫn càng căng thẳng và hai người sống ly thân, tháng 12/2003 bà Định đi khỏi nhà và về ở nhờ nhà chị gái tại số 8 Cù Chính Lan. Bà Định gửi đơn xin ly hôn vì tình cảm vợ chồng không còn. Ông Kính xin đoàn tụ, nếu bà Định kiên quyết xin ly hôn thì ông cũng nhất trí.


189/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 187
  • 7

Ly hôn

18-08-2006

Ông Hà Quang Ước và bà Trần Thị Đúc kết hôn năm 1979 trên cơ sở tự nguyện có tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại UBND khu ĐĐ. Vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 1985 thì phát sinh mâu thuẫn trong sinh hoạt. Từ năm 1997, mâu thuẫn càng căng thẳng do bất đồng về quan điểm, cách nuôi dạy con cái, nhiều lần cãi chửi nhau xúc phạm đến danh dự của nhau. Năm 2000, ông ước có đơn xin ly hôn được Tòa án phân tích đã rút đơn về đoàn tụ. Do không cải thiện được tình cảm vợ chồng mà mâu thuẫn ngày càng căng thẳng, ông Ước ăn riêng và sống ly thân, xét thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng chung sống, ông Ước có đơn xin ly hôn. Bà Đúc cho rằng vẫn còn tình cảm với ông Ước nên đề nghị đoàn tụ vì các con.


188/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 314
  • 11

Tranh chấp thừa kế

17-08-2006

Theo bà NĐ_Siết trình bày: Năm 1971, nhà nước làm mương Đông Mô nên lấy vào 2/3 đất thổ cư của cụ Tuyết và cụ Hảo để làm mương, ủy ban nhân dân xã SĐ, thị xã ST có cấp đền bù cho cụ Hảo thửa đất khác, diện tích là 909m2. Cụ Hảo đã phân chia luôn cho bà BĐ_Thụ sử dụng 517m2, còn ông Chính (chồng của bà) được chia 393m2. Các người con gái của cụ Hảo đã chuyển nguyên vật liệu của ngôi nhà cũ về làm một gian 2 chái trên phần đất chia cho ông Chinh để cho cụ Hảo ở, thời gian này ông Chinh công tác tại BV nên thỉnh thoảng mới về thăm cụ Hảo. Năm 1975, vợ chồng bà đã tháo dỡ nhà và xây lại 3 gian nhà bằng tường đá ong, lợp ra để cụ Hảo ở. Năm 1985, ông Chinh về ở cùng cụ Hảo, đến năm 1987 ông Chinh ốm nên về BV với vợ con thì cụ Hảo chết. Sau khi cụ Hảo chết một thời gian, ông Chinh đã bán nguyên vật liệu nhà cho người khác dỡ đi, trên đất còn lại 3 cây mít, 2 cây trứng gà, 2 dõng chè tươi, ông Chinh gửi bà BĐ_Thụ trông nom hộ.


203/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 194
  • 14

Tranh chấp quyền sử dụng đất

05-08-2006

Ngày 13/7/2004, cụ NĐ_Nguyễn Hữu Phưởng (tức Hừng) có đơn khởi kiện yêu cầu anh BĐ_Nguyễn Văn Lĩnh trả lại nhà, đất tọa lạc tại thôn PT, xã MS, huyện Giang Văn, tỉnh HY. Theo phía nguyên đơn trình bày: cụ NĐ_Nguyễn Hữu Phưởng được bố mẹ đẻ là cụ Nguyễn Hữu Quyên để lại một ngôi nhà tre trên diện tích 286m2 đất. Trong thời kỳ chống pháp, nhà bị đốt cháy, cụ NĐ_Phưởng đi công tác nên thửa đất trên cụ gửi họ hàng trông coi. Từ năm 1980 đến năm 1986 cụ NĐ_Phưởng nhờ ông LQ_Tí (là cháu họ) trông đất giúp, ông LQ_Tí có xây một móng nhà 3 gian đất này. Năm 1987 ông LQ_Tí trả đất cho cụ NĐ_Phưởng. Cụ NĐ_Phưởng giao thửa dất cho ông LQ_Nguyễn Văn Sừ (là con trai cụ Đỗ em ruột cụ NĐ_Phưởng) xây nhà ở để trông coi đất,


19/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1182
  • 24

Yêu cầu chia thừa kế

02-08-2006

Tài sản chung của vợ chồng cụ Phan Danh và cụ Trần Thị Lựu gồm có một ngôi nhà cấp 4 diện tích 60m2 trên 3 sào 60 thước đất (theo chứng thư kiến điền cấp ngày 24/9/1963). Sau khi cụ Lựu chết, nhà đất do cụ Danh quản lý và sau khi cụ Danh chết, nhà đất của hai cụ do vợ chồng bà BĐ_Ngọn quản lý, sử dụng. Ngày 11/6/2004 bà NĐ_Phan Thị Tự và bà NĐ_Phan Thị A khởi kiện yêu cầu chia thừa kế tài sản của hai cụ là căn nhà trên 1900m2đất (hai cụ có 2.200m2 đất khi còn sống đã cho bà BĐ_Ngọn 300m2) theo pháp luật và xin nhận bằng hiện vật. Ngày 16/8/2004 bà NĐ_Tự, bà NĐ_A nộp tạm ứng án phí.