cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

100/2006/PS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 261
  • 7

Tranh chấp quyền sử dụng đất

18-05-2006

Ngày 28/4/2003 ông NĐ_Trần Văn Long có đơn khởi kiện yêu cầu ồng BĐ_Trần Văn Xiêm Và bà BĐ_Trần Thị Sông (tức Ngọc Ánh) trả lại phần diện tích đất hiện bà BĐ_Sông và ông BĐ_Xiêm đang sử dụng. Theo ông NĐ_Trần Văn Long trình bày: Cha mẹ ông là cụ Trần Văn Mẫn và cụ Nguyễn Thị Ba, trước khi các cụ qua đời có chia đất cho 5 người con. Phần đất của ông được chia gồm: 10 công đất ruộng, 7 công đất biền bãi và 5 công đất vườn. Việc phân chia không lập giấy tờ nhưng ông đã sử dụng từ năm 1963 và đã được Ủy ban nhân dân huyện CN cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 14/12/1995 với tổng diện tích là 33.350m2. Hiện nay bà BĐ_Sông (là chị gái) đã chiếm hết phần đất biền bãi trồng lá, ông BĐ_Xiêm (là anh trai) chiếm 2590m2 đất vườn và phần mương sổ nước có chiều ngang 6m, chiều dài 72m. Ông yêu cầu bà BĐ_Sông, Ông BĐ_Xiêm trả diện tích đất nêu trên.


94/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 417
  • 5

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

24-04-2006

Bà BĐ_Hoa thừa nhận có vay của bà NĐ_Roi tổng số 29.000.000 đồng nhưng số tiền được vay làm nhiều lần từ năm 2001. Trong quá trình thực hiện hợp đồng bà đã đóng lãi cho bà NĐ_Roi tổng số tiền là 69.755.000 đồng. Nay bà BĐ_Hoa yêu cầu xem xét lại phần lãi đã đóng để trừ vào phần nợ vốn.


81/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 204
  • 7

Tranh chấp quyền sử dụng đất

26-02-2013

Theo đơn khởi kiện đề ngày 19/12/2010 và trong quá trình tố tụng, bà NĐ_Nguyễn Thị Kim Tuyết trình bày: Mẹ bà cụ Trần Thị Mần (đã chết năm 2006), có thửa đất số 26, tờ bản đồ số 2 thuộc đội 14, thôn 5, xã TX 1, huyện NT, tỉnh QN, diện tích 100m2 và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 15/8/1996. Trên thửa đất này, bà LQ_Tuyết đã xây dựng nhà ở trên diện tích 70m2 đất, còn lại 30m2 hộ gia đình bà BĐ_Trần Thị Bốn liền kề đã xây dựng trại mộc. Theo Biên bản định giá và sơ đồ hiện trạng lập ngày 21/01/2011, thì diện tích đất tranh chấp là 03 phân mảnh có diện tích là 23,78 + 6,38 + 1,87 = 32,03m2, trên đó có tài sản chái lợp tôn là trại mộc của bà BĐ_Bốn. Bà LQ_Tuyết yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà BĐ_Bốn tháo dỡ tài sản gắn liền với diện tích đất tranh chấp, trả lại toàn bộ diện tích đất tranh chấp cho bà.


75/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 285
  • 14

Tranh chấp quyền sử dụng đất

25-02-2013

Cụ Hoặc và cụ Cay tạo lập được một số tài sản trong đó có 01 căn nhà thờ trên điện tích đất 178,5m2 và phần đất riêng diện tích khoảng 9.700m2 tại các thửa 1495, 1496, 1497, 1498, 1499, 1500, 1501. Khi còn sống thi hai cụ trực tiếp canh tác nhưng từ khi hai cụ chết thì toàn bộ diện tích đất trên do bà BĐ_Nguyễn Thị Soa và ông BĐ_Nguyễn Minh Dũng sử dụng. Bà BĐ_Soa và ông BĐ_Dũng kê khai đăng ký và xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì các anh em không biết.


25/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1310
  • 39

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

29-01-2013

Theo đơn khởi kiện ngày 06/7/2002 và trong quá trình tố tụng, bà NĐ_Đỗ Thị Lan trình bày: Bà là công nhân xí nghiệp dịch vụ đời sống, Công ty Gang thép TN, năm 1991 gia đình bà được Công ty thanh lý cho 02 gian nhà ở cấp 4 của Xí nghiệp trên diện tích đất hơn 200m2 và sử dụng từ đó đến năm 2002. Do vợ chồng bà có mâu thuẫn nên bà có viết giấy ủy quyền cho chồng là ông Bùi Văn Cáp sử dụng trông coi và trong giấy không có ủy quyền bán nhà. Sau đó bà cùng hai con về bên bố mẹ đẻ bà ở. Lợi dụng lúc bà đi vắng ông Cáp đã lấy giấy tờ của bà tự ý bán 02 gian nhà thanh lý cho vợ chồng ông BĐ_Sính và bà Nguyện, sau đó ông Cáp bỏ về quê sinh sống và chết ngày 31/01/2003. Nay bà khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Sính và bà LQ_Vũ phải trả lại 02 gian nhà và không nhất trí trả số tiền mà ông Cáp đã nhận của vợ chồng ông BĐ_Sính, vì bà cho rằng ông Cáp nhận tiền thì phải tự chịu trách nhiệm.