cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

411/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 475
  • 14

Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

15-10-2014

Năm 1965, ông NĐ_Nguyễn Văn Nhiên kết hôn với bà Phạm Thị Hường. Vợ chồng sinh được 4 con là: Sơn, Hiền, BĐ_Thứ, BĐ_Sang. Cả gia đình sinh sống tại nhà đất của bố mẹ ông để lại tại Thôn 6, xã QP. Năm 1984 bà Hường chết, năm 1987 ông kết hôn với bà LQ_Nguyễn Thị Nga ở cùng thôn và về nhà bà LQ_Nga sống. Năm 1991 ông được UBND huyện QT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 500m2 trong đó 200m2 đất ở, 300m2 đất vườn thuộc thửa 886 tờ bản đồ 03 xã QP. Nhà đất trên do anh BĐ_Nguyễn Ngọc Sang, BĐ_Nguyễn Xuân Thứ sử dụng. Khoảng tháng 3/2001, anh BĐ_Sang nói với ông cho anh BĐ_Sang mượn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ký giấy ủy quyền để anh BĐ_Sang thế chấp vay tiền ngân hàng chữa bệnh cho vợ. Do không đọc nên ông đã ký, nhưng sau đó ông mới biết là anh BĐ_Sang lừa ông để ký vào giấy chứng nhận cho con đất và anh BĐ_Sang đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên. Ông đã có đơn đề nghị và năm 2009 UBND huyện QT đã ra quyết định hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh BĐ_Sang và phục hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông. Nay ông khởi kiện yêu cầu anh BĐ_Sang, anh BĐ_Thứ phải trả lại nhà đất trên cho ông


343/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2604
  • 244

Tranh chấp chia di sản

27-08-2014

Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 23/2011/ĐS-PT ngày 31/5/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh QN và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 08/2010/DSST ngày 12/7/2010 của Toà án nhân dân thành phố QN về vụ án dân sự “Tranh chấp di sản thừa kế quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là bà NĐ_Lê Thị Đan, bà NĐ_Lê Thị Liên, bà NĐ_Lê Thị Như, bà NĐ_Lê Thị Hân, bà NĐ_Lê Thị Phương, anh NĐ_Lê Hữu Đình với bị đơn là ông BĐ_Lê Lâm.


340/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 249
  • 5

Tranh chấp thừa kế

26-08-2014

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa thu thập chứng cứ để xác định khi còn sống vợ chồng cụ Trinh có quản lý, sử dụng đất có tranh chấp hay không mà chỉ căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà Tuyết và lời khai của chị BĐ_Thư để bác yêu cầu khởi kiện của bà NĐ_Cẩm là chưa đủ căn cứ. Vì vậy, Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị hủy cả bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm nêu trên là có căn cứ chấp nhận.


318/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 784
  • 17

Tranh chấp thừa kế

19-08-2014

Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 132/2011/BSPT ngày 18/7/2011 của Tòa án nhân dân thành phố HN và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 09/2010/DSST ngày 26/8/2010 của Tòa án nhân dân huyện TL (nay là Tòa án nhân dân quận Nam TL), thành phố HN về vụ án “Tranh chấp chia thừa kế” giữa nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Đình Ba, bà NĐ_Nguyễn Thị Thắm (tức NĐ_Trúc), anh NĐ_Nguyễn Minh Lợi, bà NĐ_Nguyễn Thị Lam với bị đơn là ông BĐ_Nguyễn Đình Khanh, bà BĐ_Nguyễn Thị Hân và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.


304/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1105
  • 33

Tranh chấp chia di sản

28-07-2014

Bên cạnh đó Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm còn có sai sót sau: Ông Đỗ Kiểm chết trước cụ Phan Thị Đạt nên trong trường hợp này các anh chị LQ_Đỗ Thị Linh, LQ_Đỗ Thị Hà, LQ_Đỗ Thị Sa, LQ_Đỗ Thị Hảo, LQ_Đỗ Thị Châu, LQ_Đỗ Thị Trà, LQ_Đỗ Thị Trân, BĐ_Đỗ Quang Vũ, BĐ_Đỗ Quang Tâm, LQ_Đỗ Thị Kim Thư là người thừa kế thế vị di sản của cụ Phan Thị Đạt. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm quyết định bà LQ_Võ Thị Hoa cũng được hưởng di sản thừa kế của cụ Đạt là không đúng pháp luật. Đất tranh chấp gồm có đất ở và đất trồng cây lâu năm có giá trị khác nhau. Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết chia theo hiện vật mỗi phần thừa kế 1.333,2m2 mà chưa tính đến vấn đề giá trị là ảnh hưởng đến quyền lợi của những người thừa kế được nhận đất có giá trị thấp. Tòa án cấp phúc thẩm quyết định bà NĐ_Đỗ Thị Điệp, bà NĐ_Đỗ Thị Cẩm có nghĩa vụ thanh toán cho bà LQ_Võ Thị Hoa và 10 người con giá trị 31,2m2 đất chênh lệch theo giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh TN quy định mà không theo giá thị trường là không phù hợp pháp luật.