cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

334/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1207
  • 40

Tranh chấp thừa kế

19-08-2013

Cố Đệ và cố Sảnh chết, không để lại di chúc. Theo quyết định của hội đồng gia tộc ngày 31/12/1963 thì có 10.000m2 là đất hương hỏa và giao cho cụ Son quản nhiệm, đồng thời cũng đề cử cụ Sòn giám hộ cho ông Nguyễn Tấn Kiến sinh năm 1948 (BL147-154). Sau khi cụ Son chết, những người thừa kế của cụ Son và cụ Sự đã lập tờ thuận phân diện tích 10.000m2 đất hương hỏa nói trên vào ngày 24/3/1991. Mỗi bên nhận phần bằng nhau có diện tích 5.000m2. Căn nhà ngói 3 gian của cố Đệ và cố Sảnh được chia cho ông Nguyễn Tấn Kiển quản lý phần gian bên trái. Cụ Son quản lý phần gian giữa và gian bên phải (BL152). Lúc sinh thời cụ Son có chia cho ông sử dụng thửa 125 với diện tích là 3.275m2. Phần còn lại ông BĐ_Quý và các con sử dụng cho đến nay. Trên phần đất này có căn nhà hương hỏa xây dựng trên diện tích 1.053m2 tại số 108/95/94 NVH, phường AP, quận NK, thành phố CT. Ông NĐ_Trà yêu cầu chia thừa kế căn nhà và diện tích đất này. Ông là con trai duy nhất của cụ Son và cụ Tụy nên ông sẽ đảm nhiệm việc thờ cúng.


326/2013/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 182
  • 6

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

25-07-2013

Ngày 14/01/2009, cụ Chanh chết. Ông Nguyễn Tấn Phước (là cha cháu BĐ_Như) đại diện cho cháu BĐ_Như làm thủ tục kê khai di sản thừa kế là căn nhà số 140/74 HHN, phường 8, quận X, thành phố HCM. Ngày 19/6/2009, ủy ban nhân dân quận X công nhận nhà số 140/74 là tài sản của cháu BĐ_Như. Ngày 25/6/2009 ông Phước và cháu BĐ_Như bán căn nhà số 140/74 cho bà, bà đã trả đủ tiền và làm thủ tục sang tên căn nhà trên vào ngày 22/7/2009. Việc mua bán đã hoàn tất nhưng nhiều lần bà yêu cầu bên bán là cháu BĐ_Như giao nhà nhưng bên bán không thực hiện. Nay bà yêu cầu cháu BĐ_Như cùng những người đang cư trú trong ngôi nhà trên là bà LQ_Trần Thị Hồng Hà, cháu LQ_Tchan Thị Hồng Thanh, cháu LQ_Tchan Thị Hồng Trân, cháu LQ_Tchan Văn Tân phải giao trả nhà cho bà. Bà đồng ý hỗ trợ cho gia đình bà LQ_Hà triệu đồng ngay khi giao nhà.


306/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 218
  • 7

Tranh chấp thừa kế

23-07-2013

NHẬN THẤY: Theo đơn khởi kiện ngày 19/7/2009 và trong quá trình tố tụng, ông NĐ_Hoàng Năng Hà trình bày: Cha mẹ ông là cụ Hoàng Năng Thiều (mất năm 1971) và cụ Nguyễn Thị Loan (mất năm 2000) sinh được 6 người con là: LQ_Hoàng Thị Thư, NĐ_Hoàng Năng Hà, LQ_Hoàng Năng Bảo, LQ_Hoàng Năng Thịnh, BĐ_Hoàng Năng Hưng và không có con nuôi. Khi còn sống, cha mẹ ông có nhà đất tại xã QV. Sau khi cha ông chết, năm 1973 mẹ ông bán nhà đất này và xuống khai hoang đất và làm nhà tại xóm Tân Hùng, xã QT (nay là khối 9 thị trấn HM huvện QL, NA). Khi mẹ ông còn sống, bà có tạo lập được khối tài sản gồm: 01 nhà ngói 4 gian, 01 bếp lọp ngói 3 gian nằm trên diện tích đất 2.199m2. Ông và bà LQ_Thư, ông LQ_Bảo, ông LQ_Thịnh, ông LQ_Thành đã lập gia đình và ở riêng, chỉ còn lại ông BĐ_Hưng là con trai út (vợ là BĐ_Hồ Thị Tiên) sống cùng mẹ ông tại nhà đất này.


900/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 868
  • 30

Ly hôn

24-12-2010

Tại đơn xin ly hôn đề ngày 02/02/2006 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Huỳnh Hữu Chiến (Măng) trình bày: Anh và chị Diễm chung sống như vợ chồng từ năm 1986, không có đăng ký kết hôn. Anh, chị có 3 con chung là Huỳnh Ngọc Thùy sinh năm 1988; Huỳnh Ngọc Thoa sinh năm 1989 và Huỳnh Ngọc Thương sinh năm 1999. Hai anh, chị tạo lập được 3.996m2 đất tại xã PT, huyện NT, hiện do chị Diễm đứng tên, một căn nhà làm nhờ trên đất của chị Huê (là chị gái của anh), một xe ô tô 16 chỗ ngồi; 15.000.000 đồng tiền bán xe Honda Drem và một số tài sản nhỏ khác.


836/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 982
  • 31

Ly hôn

20-12-2010

NHẬN THẤY: Theo đơn xin ly hôn ngày 05/11/2008 chị Nguyễn Thị Thanh Trà trình bày: chị và anh Ngà tự nguyện yêu thương và cùng chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn ngày 24/10/2000 tại UBND xã Giang Điền, huyện TB. Quá trình chung sống, anh Ngà không quan tâm chăm sóc đến vợ con, sống thiếu trách nhiệm với gia đình và còn có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác. Nay chị không còn tình cảm gì với anh Ngà. Vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau và sống ly thân từ tháng 8/2008 cho đến nay, nên chị yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn. Về con chung: chị yêu cầu được nuôi cả hai con chung là cháu Phạm Duy Phúc sinh ngày 27/9/2002 bị bệnh bại não và cháu Phạm Thanh Vy sinh ngày 16/6/2008. Chị yêu cầu anh Ngà cấp dưỡng cho cháu Phúc mỗi tháng 1.500.000đ cấp dưỡng đến suốt đời và cấp dưỡng cho cháu Vy mỗi tháng 1.000.000đ cho đến khi cháy Vy đến 18 tuổi.