cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

66/2011/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 577
  • 18

Không công nhận quan hệ vợ chồng

21-01-2011

Năm (1989) ông Mật và bà Nguyễn Thị Son chung sống (có đăng ký kết hôn), có 2 con chung là Phạm Thanh Thủy và Phạm Minh Hồng. Tài sản chung của vợ chồng ông gồm có căn nhà cấp 4, bếp, chuồng heo, công trình thắp sáng trên diện tích 17.000 m2 đất (đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Mật với diện tích 11.396 m2) trồng cây cà phê cùng các tài sản khác như 2 máy chà cà phê, 01 cân đồng hồ, 01 xe máy, 01 máy kama4, 01 mô tơ, 01 tủ đựng quần áo, tủ đựng chén bát, 01 quạt điện; ngoài ra, vợ chồng ông còn nợ vợ chồng ông Toàn số tiền 22.500.000đ, nợ bà Vui 3.000.000đ và 01 chỉ vàng, nợ bà Bảy 1.400.000đ, nợ ông Thiết 1.050.000đ, nợ bà Mừng 800.000đ, nợ bà Trọng 1.000.000đ. Do mâu thuẫn nên ông Mật yêu cầu được ly hôn bà Son, đồng ý nuôi cháu Hồng, yêu cầu chia đôi tài sản chung và nợ chung


18/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 805
  • 5

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

29-06-2009

Vào tháng 5/2006, ông NĐ_Trần Văn Sang và bà NĐ_Lê Thị Thư có thỏa thuận làm giấy giao kèo vay tiền, thế chấp quyền sử dụng đất nền và bản vẽ cho vợ chồng ông BĐ_Lê Văn Phước và bà BĐ_Nguyễn Thị Hà để họ vay hộ 100.000.000 đồng của chị gái bà BĐ_Hà là cô Gái nhỏ (Nguyễn Thị Hường) với lãi suất 2%/tháng, trong thời hạn 1 năm. Ngày 10/5/2006, bà Thị viết giấy giao kèo, hai vợ chồng cùng ký tên và giao cho bà BĐ_Hà, ông BĐ_Phước cùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U371762 do anh NĐ_Sang đứng tên, để bà BĐ_Hà đi vay tiền hộ khi nào có tiền thì hai bên sẽ làm giấy giao tiền và nhận tiền, làm công chứng tại xã. Việc viết giấy giao kèo chỉ có vợ chồng anh NĐ_Sang, bà NĐ_Thư và vợ chồng ông BĐ_Phước, bà BĐ_Hà biết không có ai làm chứng. Do chưa nhận được tiền nên anh NĐ_Sang, bà NĐ_Thư khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Phước, bà BĐ_Hà trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và bản vẽ nhà cho anh NĐ_Sang, bà NĐ_Thư.


261/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 645
  • 4

Tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất

25-06-2009

Theo đơn khởi kiện và lời khai của anh NĐ_Đinh Văn Bình trong quá trình giải quyết vụ án thì cha anh là ông Đinh Văn Sáng được Nhà nước xác lập quyền sử dụng đất số 003456 ngày 5/6/1992 tại các thửa 351, 357, 358. Năm 1999 ông Sáng chết. Ngày 16/8/2001 anh NĐ_Đinh Văn Bình được ủy ban nhân dân huyện chấp thuận cho đứng tên toàn bộ diện tích đất là 11.106m2 tại các thửa đất của (nói trên). Năm 1976 cha anh có cho ông BĐ_Huỳnh Văn Bảo sử dụng với hình thức cho ở nhờ tại thửa 357. Nay anh có nhu cầu sử dụng đất nên anh yêu cầu ông BĐ_Bảo di dời, trả đất anh sẽ hổ trợ di dời 3.000.000 đ và trả giá trị cây trồng theo định giá.


258/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 851
  • 12

Tranh chấp quyền sử dụng đất

24-06-2009

Theo đơn khởi kiện ngày 23/10/2006 và trong quá trình tố tụng, bà NĐ_Phạm Thị Thư và ông Nguyễn Kim Cương đại diện của bà NĐ_Thư khai: Gia đình ông được gia tộc để lại một phần đất tại ấp Sò Đọ, thị trấn HN, huyệp ĐH, năm 1990 ông Huỳnh Kim Chi (chồng bà NĐ_Thư, cha ông Cương) được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất loại bìa trắng diện tích 7.065m2, ông Cương được cấp quyền sử dụng đất 6.92lm2. Năm 1997 ông Chi mất, bà NĐ_Thư thấy hoàn cảnh gia đình ông BĐ_Huỳnh Văn Công là cán bộ Trường bổ túc, khó khăn không có nhà ở do bị giải tỏa, vợ lại bị bệnh, xuất phát từ tình cảm bạn bè nên bà NĐ_Thư cho ông BĐ_Công một phần đất cất nhà ở, khi nào Nhà nước giải quyết chính sách cho ông BĐ_Công thì trả lại đất, năm 2004 ông BĐ_Công được nhà nước cấp nhà tình thương, đã đổ vật tư để xây nhà tình thương trên đất của ông, gia đình ông ngăn cản và yêu cầu ông BĐ_Công trả đất nhưng ông BĐ_Công không trả. Nay ông Cương được bà NĐ_Thư ủy quyền tham gia tố tụng yêu cầu ông BĐ_Công dỡ nhà trả đất mà Tòa án đã đo đạc là 200m2, ông Cương đồng ý bồi thường các tài sản trên đất.


257/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 441
  • 5

Tranh chấp quyền sử dụng đất

24-06-2009

Theo đơn khởi kiện ngày 6/10/2004 của bà NĐ_Trần Thị Ngân và lời khai của ông Nguyễn Văn Hòa đại diện cho nguyên đơn trình bày: Năm 1966, bà có mua của Linh mục Đinh Xuân Hải hai lô đất mang số hiệu 1450B và 1450C tọa lạc tại xã TSN, quận TB, tỉnh GĐ (nay là phường TSN, quận TP, thành phố HCM.) Sau khi mua đất đã cất nhà trên hai lô đất đó. Do gia đình bà đi kinh tế mới nên bán một lô đất mang số hiệu 1450B, lô còn lại 1450C để lại cho các con ở, thỉnh thoảng bà đơn có về thăm nhà và các con. Năm 1980, chủ nhà của lô đất 1450B bán nhà lại cho bà BĐ_Lê Thị Đan. Một thời gian sau đó gia đình có việc nên không có ai ở tại nhà này mà tập trung về ở tại khu kinh tế mới. Đến năm 1992, bà BĐ_Đan lợi dụng việc không có ai ở nhà, nên đã chiếm phần nhà và đất của gia đình bà bà cũng đã yêu cầu nhưng bà BĐ_Đan không trả. Sau đó, bà có khởi kiện tại địa phương nhưng vẫn không có kết quả. Nay yêu cầu bà BĐ_Đan phải trả lại nền nhà có diện tích 4m X 18m cho bà vì căn nhà cũ đã bị phá bỏ và bà BĐ_Đan đã xây dựng thành nhà cấp 4