cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

163/2015/DS-ST: Tranh chấp quyền sử dụng đất Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 345
  • 10

Tranh chấp quyền sử dụng đất

04-06-2015
TAND cấp huyện

Ngày 17/01/2001 ông NĐ_Thân mua một căn nhà lá nhỏ và chuồng heo của bà LQ_Ngô Thị Vy có tổng diện tích 87,5 m2 với giá 18.000.000 đồng, việc mua bán bằng giấy tay,ông đã giao đủ tiền. Ông NĐ_Thân đã sử dụng nhà và chuồng heo được một năm thì không sử dụng nữa, sau đó nhà bị hư hỏng, hiện trạng hôm nay đất trống nhưng còn dấu tích của cột và tường chuồng heo. Tuy nhiên ông NĐ_Thân có rào đất bằng kẽm gai và có thường ghé thăm đất. Trong thời gian sử dụng nhà, nhà này không có đường đi ngay trước mặt mà ông NĐ_Thân phải đi nhờ đường đi trên đất của bà LQ_Vy. Tháng 12/2008 ông NĐ_Thân phải trả tiền cho bà Lê Thị Mới để được sử dụng đường đi chung với bà Mới, do vậy nay lô đất của ông NĐ_Thân là mặt tiền của lối đi chiều ngang 3m tráng xi măng.


161/2015/DS-ST: Tranh chấp quyền sử dụng đất Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 300
  • 9

Tranh chấp quyền sử dụng đất

04-06-2015
TAND cấp huyện

Vào khoảng năm 2009 ông NĐ_Hồ Quang Tú và bà NĐ_Hứa Đoan Trinh có thỏa thuận với vợ chồng ông BĐ_Thái Trung Tân và bà BĐ_Hồ Đan Thịnh cùng góp tiền mua 420m2 đất, sau khi nhận chuyển nhượng, ông BĐ_Tân, bà BĐ_Thịnh có trách nhiệm tách thửa để sang tên cho ông Tuyến, bà NĐ_Trinh. Ngày 17/5/2013, hai bên ký bản cam kết, nội dung ông BĐ_Tân, bà BĐ_Thịnh có trách nhiệm lập thủ tục tách thửa sang tên quyền sử dụng phần đất 160m2 thuộc thửa 681 tờ bản đồ 56 cho vợ chồng ông Tuyến. Tuy nhiên sau khi tách thửa, vợ chồng ông Tòan đã nhuyền nhượng đất cho người khác. Khi ông Tuyến phát hiện thì chỉ còn phần đất 98,6m2 thuộc thửa 695 tở bản đồ 56, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sổ hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số vào sổ CH02605 ngày 20/8/2013 cấp cho bà BĐ_Hồ Đan Thịnh, là chưa chuyển nhượng cho người khác.


369/2016/DS-ST: Tranh chấp quyền sử dụng đất Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 933
  • 35

Tranh chấp quyền sử dụng đất

20-09-2016
TAND cấp huyện

Bà NĐ_Linh xác định rõ hai phần đất bà tranh chấp với gia đình bên chồng gồm: -Phần đất có diện tích 759,1m2 (thuộc thửa 212, tờ bản đồ số 2, bộ địa chính xã TCH, huyện HM cũ theo tài liệu chỉnh lý năm 1991, nay thuộc thửa 67, tờ bản đồ số 38, Bộ địa chính phường TCH, Quận T theo tài liệu năm 2005) tương ứng với phần ký hiệu (1) trong bản đồ hiện trạng vị trí do trung tâm đo đạc bản đồ-Sở Tài nguyên môi trường Thành phố HCM lập ngày 25/01/2010. - Phần đất có diện tích 625,5m2 (thuộc thửa 330, tờ bản đồ số 2, bộ địa chính xã TCH, huyện HM cũ theo tài liệu chỉnh lý năm 1991, nay thuộc thửa 67, tờ bản đồ số 38, Bộ địa chính phường TCH, Quận T theo tài liệu năm 2005) tương ứng với phần ký hiệu (6) trong bản đồ hiện trạng vị trí do trung tâm đo đạc bản đồ-Sở Tài nguyên môi trường Thành phố HCM lập ngày 25/01/2010.


1302/2014/DS-PT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 416
  • 24

Tranh chấp quyền sử dụng đất

25-09-2014
TAND cấp tỉnh

Căn cứ vào Bản kê khai nhà cửa ngày 21/12/1977 của bà Lê Thị Nam thì diện tích sử dụng chính của căn nhà tại 1456 BT, Phường 7, Quận Y, Thành phố HCM là 26 m2. Căn cứ vào các hình ảnh do đương sự cung cấp và sự thừa nhận của các bên đương sự thì căn nhà lúc đó có kết cấu là nhà vách lá. Trong quá trình sinh sống, bà BĐ_Hà và ông Hiệp đã có công xây cất căn nhà từ năm 1993 để có hiện trạng như bây giờ, sự việc này được những hộ dân xung quanh xác nhận nên có cơ sở để xác định căn nhà tại 1456 BT, Phường 7, Quận Y, Thành phố HCM (theo định giá là 198.457,350 đồng) thuộc sở hữu của ông Hiệp, bà BĐ_Hà. Phía nguyên đơn cùng những người liên quan cho rằng căn nhà này của bố mẹ bỏ tiền ra xây dựng nhưng không có gì chứng minh nên không có cơ sở để chấp nhận. Do đó, cấp sơ thẩm xác định căn nhà là di sản thừa kế là không đúng với thực tế.


1183/2014/DS-PT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 487
  • 13

Tranh chấp quyền sử dụng đất

12-09-2014
TAND cấp tỉnh

Năm 1968, con của ông Ngô Văn Bầu là bà Ngô Thị Điệt cho cha mẹ ông BĐ_An là bà Mai, ông Tân ở nhờ trên phần đất khoảng 212 m2 do chiến tranh loạn lạc, khi bình yên họ sẽ về quê và trả lại đất. Nhiều lần bà Điệt nhắc nhở việc trả lại đất, họ hứa khi qua đời sẽ trả nhưng họ đã chết hơn 10 năm nay, khi chúng tôi yêu cầu trả lại đất thì ông BĐ_An không trả còn nói là đất của ông đã mua và trả tiền cho ông Út Ịch là cậu bà, tuy nhiên điều này là không có căn cứ vì cậu bà ở Sài Gòn không ở trên đất này, gia đình bà hoàn toàn không biết và cậu bà cũng đã chết hơn 10 năm nay. Thực tế chỉ có cha mẹ ông BĐ_An ở trên phần đất này, ông BĐ_An có thời gian đi cải tạo và làm việc ở Sài Gòn, chỉ khi cha mẹ chết ông BĐ_An mới về ở đây thường xuyên. Tất cả các cam kết đều bằng miệng, không có văn bản giấy tờ.