cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

360/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 219
  • 3

Tranh chấp quyền sử dụng đất

16-09-2014

NHẬN THẤY Theo đơn khởi kiện ngày 15/10/2010 và trong quá trình giải quyết vụ án ông NĐ_Phạm Minh trình bày: Năm 1998 ông nhận chuyển nhượng của ông Trần Hữu Lượng một thửa đất có diện tích khoảng 27.000m2 tại thôn Đăk Soun, xã QT, huyện TĐ, tỉnh ĐN với giá 13.200.000 đồng. Sau khi nhận chuyển nhượng gia đình ông trồng cà phê. Năm 2002 ông chỉ cho BĐ_Phạm Trinh (là con ruột) khoảng 13.000m2 đất để anh BĐ_Trinh và vợ tự chăm sóc, thu hoạch cà phê, cây cối kiếm thu nhập chứ ông không có ý định cho đất hay trả tiền công chăm sóc mà chỉ là cho mượn đất. Do anh BĐ_Phạm Trinh đối xử với cha mẹ tệ bạc, không đồng ý cắt một phần đất trong diện tích ông cho mượn nhập vào phần đất liền kề của ông cho vuông thửa, cũng không trả 01 tạ cà phê mỗi năm cho cha mẹ như ông yêu cầu. Do đó, ông khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc anh BĐ_Phạm Trinh phải trả lại toàn bộ diện tích đất mà năm 2002 ông cho mượn cùng với 990 cây cà phê và 44 cây muồng, 01 căn nhà gỗ trên đất là tài sản chung của ông và vợ là bà LQ_Trần Thị Thân. Ông đồng ý trả lại 1/2 giá trị ao cá cho anh BĐ_Phạm Trinh là 3.500.000 đồng.


359/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 229
  • 3

Tranh chấp quyền sử dụng đất

16-09-2014

Theo bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Cụ NĐ_Bùi Thị Hoa khởi kiện đòi anh BĐ_Trần Văn Minh phải trả lại diện tích 120m2 đất trước năm 2001 là ao tại thửa số 237, tờ bản đồ số 29, loại đất lâu năm quả, bản đồ năm 2007 (bản đồ năm 2001 thể hiện tại thửa 51, tờ số 24) mang tên anh BĐ_Trần Văn Minh của xã ĐH, huyện KĐ, tỉnh HY. Quan điểm của cụ NĐ_Hoa xác định khoảng năm 1970 do sông lở không còn đất nên cụ đã sang thôn 6, xã ĐH mua lại đất của cụ Nguyễn Thị Khoản (cụ Khoản chuyển đi Tây Bắc nay đã chết), trong đó có cả phần đất (trước kia là ao) đang tranh chấp. Cụ NĐ_Hoa sử dụng đất và phần ao mua lại của cụ Khoản đến năm 2001, gia đình anh BĐ_Trần Văn Minh đổ đất san lấp lấn chiếm 2/3 ao với diện tích 120m2 xây tường bao giáp ngõ đi vào nhà. Cụ NĐ_Hoa đã đề nghị với cơ sở thôn để hòa giải yêu cầu anh BĐ_Minh không được đổ đất, nhưng anh Manh vẫn cố tình lấn chiếm.


194/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 211
  • 7

Tranh chấp quyền sử dụng đất

13-05-2014

Tại đơn khởi kiện ngày 28/7/2008 nguyên đơn là bà NĐ_Hoàng Thị Linh trình bày: Bà và ông BĐ_Hoàng Văn Bình là ông em ruột. Do hoàn cảnh gia đình bà rất khó khăn, cha là liệt sỹ, nên năm 1988 bà đi lao động tại Liên Xô cũ. Quá trình lao động, bà gửi hàng, đô la Mỹ (USD) về nước cho ông BĐ_Bình bán và giữ hộ, cụ thể: - 02 lần gửi hàng: Năm 1990 bà gửi 01 thùng hàng, ông BĐ_Bình nhận và bán được 20.000.000đ; năm 1992 bà gửi tiếp thùng hàng thứ 2, ông BĐ_Bình bán và mua giữ hộ bà 01 cây vàng 9999; - 06 lần gửi tiền: Năm 1993 bà gửi hai lần là 5000 USD, năm 1994 gửi hai lần là 4000 USD, năm 1995 và 1996 mỗi năm gửi 2000 USD, tổng số tiền gửi là 13.000 USD.


193/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 219
  • 10

Tranh chấp quyền sử dụng đất

13-05-2014

Theo đơn khởi kiện ngà 29/3/2004 nguyên đơn là cụ NĐ_Trần Tuyết Vy trình bày: Năm 1956, cụ NĐ_Vy và chồng là cụ Lâm Khoa Quan mua một căn nhà tranh vách đất tại khu phố AK (nay là nhà số 100 NH, tổ 9, phường AP, thị xã AK, tỉnh GL) của vợ chồng ông Đặng Ấm và bà Hồ Thị Đào với giá 2.700đ; thửa đất có nhà dài 30m, rộng 25m. Sau đó vợ chồng cụ NĐ_Vy cất thêm 2 căn nhà tranh, một căn nhà trước dùng để ở (khoảng 45m2), 01 căn nhà sau nối liền nhà trước dùng làm bếp (khoảng 40m2). Việc mua bán được lập thành văn bản, có Cảnh sát trưởng quận Tân An xác nhận ngày 08/12/1956.


59/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 197
  • 7

Tranh chấp quyền sử dụng đất

25-02-2014

Năm 1930 cha mẹ các cụ là cố Nguyễn Lượng (chết 1945) và cố Lê Thị Bảy (chết năm 1948) khai hoang đất và dựng nhà ở (hiện nay là số 25 PCT, thành phố KT, tỉnh KT), năm 1937 được chính quyền chế độ cũ cấp quyền sở hữu diện tích 1415m2 đất. Hai cố có 5 người con là cụ NĐ_Nguyễn Thị Lân (tức Long), cụ Nguyễn Thị Báu, cụ NĐ_Nguyễn Thị Thủy, cụ LQ_Nguyễn Văn Man và cụ Nguyễn Lành, cố Lượng chết năm 1945, cố Bẩy chết năm 1948 đều không để lại di chúc.