cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

83/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 250
  • 5

Tranh chấp thừa kế

08-07-2013

79/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 223
  • 6

Tranh chấp thừa kế

28-06-2013

Ngày 26/7/2008, ông sang Úc định cư, nhưng vẫn thường xuyên gửi tiền về cho cụ Điệp. Tháng 7/2009, ông về thăm cụ Điệp và cụ Điệp có nói: Nhà đã quá cũ kỹ và mục nát; cụ Điệp muốn xây lại nhà. Cụ Điệp có làm đơn xin chính quyền địa phương cho sửa chữa nhà ngày 20/4/2009. Tiền xây nhà của vợ chồng ông BĐ_Thế, bà LQ_Tố bỏ ra. Sau khi xây nhà, vợ chồng ông BĐ_Thế dọn về ở chung với cụ Điệp. Ngày 07/11/2009, cụ Điệp chết, không để lại di chúc. Ông và ông BĐ_Thế chi phí ma chay cho cụ Điệp, nhưng ông không tranh chấp về phần này. Nay ông khởi kiện và yêu cầu Tòa án chia thừa kế di sản của cha mẹ để lại là ½ diện tích đất thổ vườn và căn nhà trên.


78/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 237
  • 6

Tranh chấp thừa kế

28-06-2013

Ông BĐ_Toàn có xuất trình 03 bản “Chúc thư giao quyền thừa kế” đề tên cụ Ca lập ngày 02/1/1996, có chữ ký đề tên ông NĐ_Linh, ông NĐ_Tú, ông NĐ_Đinh, ông NĐ_Tin nhưng ông NĐ_Linh, ông NĐ_Tú, ông NĐ_Đinh, ông NĐ_Tin đều cho rằng các ông không ký vào 03 chúc thư trên mà chỉ ký vào 01 tờ giấy trắng do ông BĐ_Toàn nhờ ký để làm thủ tục vay tiền của Ngân hàng, nên không thừa nhận các di chúc trên, nên yêu cầu chia thừa kế tài sản của 02 cụ cho 08 người con và chia bằng hiện vật; xin được sử dụng nhà gỗ 03 gian và diện tích đất được chia để làm nơi thờ cúng cha mẹ. Đồng thời, đề nghị Tòa án giám định 03 “Chúc thư giao quyền thừa kế” và giám định chữ ký của ông NĐ_Linh, ông NĐ_Tú, ông NĐ_Tin, ông NĐ_Đinh trong 03 chúc thư trên.


74/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 231
  • 3

Tranh chấp thừa kế

26-06-2013

Năm 1981 cụ Tú chết không để lại di chúc. Năm 2001 cụ NĐ_Cùng không ở nhà 238/29 TC mà chuyển về HM ở cùng với cháu. Hiện ông LQ_Tý và bà BĐ_Thoa cùng quản lý, sử dụng nhà đất trên, ông LQ_Tý ở phía trước, bà BĐ_Thoa ở phía sau. Năm 2002 ông LQ_Tý làm thủ tục đăng ký kê khai cho hai cụ và vợ chồng cụ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Năm 2003 bà BĐ_Thoa mượn sổ đỏ để thế chấp ngân hàng nhưng cụ không cho mượn nên bà BĐ_Thoa mới tranh chấp phần đất phía sau. Ngày 21/12/2007 Uỷ ban nhân dân quận Y đã có Quyết định số 1059 thu hồi và hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất đã cấp cho hai cụ. Cụ yêu cầu xác định toàn bộ nhà đất số 238/29 TC là của vợ chồng cụ và chia di sản thừa kế của cụ Tú để lại. Đồng thời cụ yêu cầu phát mãi toàn bộ tài sản để cụ nhận phần của cụ theo quy định của pháp luật.


56/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2800
  • 95

Tranh chấp thừa kế

28-05-2013

Trong vụ án tranh chấp về chia tài sản thừa kế, ông NĐ_Giao Tùng Ngô là người Việt Nam hiện đang sinh sống tại Mỹ nhưng Tòa án chưa thu thập chứng cứ làm rõ ông NĐ_Giao Tùng Ngô có đủ điều kiện sở hữu nhà tại Việt Nam hay không mà đã công nhận cho ông Tú được quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở Việt Nam là không đúng (Quy định tại Điều 22 Nghị quyết 1037/NQ-UBTVQH11 ngày 27/7/2006 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia).