cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

467/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 263
  • 10

Tranh chấp thừa kế

24-11-2014

Năm 1990 cụ Bài chết không để lại di chúc, toàn bộ tài sản của cụ Bài do cụ Mùi quản lý. Cuối năm 2001, cụ Mùi chết, tài sản để lại là 674m2 đất thổ cư tại tổ dân phố Hoa Lư, thị trấn HS, LT, tỉnh VP có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên cụ Mùi cấp năm 1998, hiện nay UBND thị trấn HS đang quản lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này. Trước khi chết, vào năm 1998 cụ Mùi có viết 03 bản di chúc để lại cho ông Khánh 154m2 (ông Khánh là con cụ Nguyễn Tiến là em trai cụ Mùi), ông BĐ_Hoàng Tú Ân và ông BĐ_Hoàng Minh Tứ mỗi người 260m2 (ông BĐ_Ân là con cụ Hoàng Đình Huề là anh trai cụ Hoàng Cao Bài; ông BĐ_Tứ là con cụ Hoàng Văn Huy là em trai cụ Hoàng Cao Bài); Ngày 14/10/2009 ông Khánh đã khởi kiện yêu cầu chia thừa kế theo di chúc, tại bản án phúc thẩm số 37/2010/DS-PT ngày 14/7/2010 Tòa án nhân dân tỉnh VP tuyên bố 03 bản di chúc là không hợp pháp. Hiện này toàn bộ tài sản của cụ Mùi do ông BĐ_Ân và ông BĐ_Tứ quản lý, ông BĐ_Ân đã xây 3 gian nhà, bếp, giếng, sân trên đất của cụ Mùi. Các nguyên đơn đề nghị Tòa án chi toàn bộ diện tích đất của cụ Mùi cho cụ NĐ_Sâm, cụ NĐ_Hào, cụ NĐ_Tiên, cụ NĐ_Tý thành 04 phần bằng nhau vì họ là những người được hưởng thừa kế còn lại duy nhất của cụ Mùi và đồng ý thanh toán bằng tiền toàn bộ những tài sản mà ông BĐ_Ân, ông BĐ_Tứ xây dựng trên đất của cụ Mùi.


45/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 223
  • 8

Tranh chấp thừa kế

14-10-2014

Cụ Hồ Thị Tám và cụ Nguyễn Văn Hiếu có 01 người con chung là ông LQ_Nguyễn Văn Công. Sau khi cụ Hiếu chết (năm 1945), cụ Tám chung sống với cụ Vương Văn Giấp, hai cụ có 02 người con chung là ông và bà LQ_Vương Thị Phụng. Cụ Giấp chết năm 1991, cụ Tám chết năm 1994, không để lại di chúc. Tài sản do cụ Tám và cụ Giấp tạo lập bao gồm diện tích 4.664m2 đất tại khu 4, xã TBH, thành phố TDM, tỉnh BD (đo thực tế là 3.910,9 m2) do cụ Tám đứng tên nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn Kính vào ngày 26/12/1955, có chứng thực của chính quyền địa phương. Sau khi cụ Tám chết, ông LQ_Công và anh BĐ_Nguyễn Tòng Lân (là con của ông LQ_Công) quản lý phần đất này cho đến nay và đã đăng ký, được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (ông LQ_Công được cấp diện tích 1.983m2, anh BĐ_Lân được cấp diện tích 1.920m2). Hiện trên đất có 03 ngôi mộ gồm mộ cha cụ Tám, cu Bảy và cụ Giấp. Ông NĐ_Tề khởi kiện yêu cầu chia thừa kế đối với phần đất 4.6ó4m2 nêu trên. Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 30/12/2005, ông NĐ_Tề thay đổi yêu cầu, chỉ đề nghị chia thừa kế đối với phần đất 1.920m2 do anh BĐ_Lân sử dụng cho ông và bà LQ_Phụng, phần đất ông LQ_Công sử dụng coi như phần chia cho ông LQ_Công. Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 12/6/2006, ông NĐ_Tề xác định chỉ đòi phần đất của bà LQ_Phụng mà hiện nay anh BĐ_Lân đang sử dụng và đồng ý trích công sức quản lý gìn giữ đất cho anh BĐ_Lân là 25% giá trị đất, ông không yêu cầu chia cho ông


340/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 249
  • 5

Tranh chấp thừa kế

26-08-2014

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa thu thập chứng cứ để xác định khi còn sống vợ chồng cụ Trinh có quản lý, sử dụng đất có tranh chấp hay không mà chỉ căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà Tuyết và lời khai của chị BĐ_Thư để bác yêu cầu khởi kiện của bà NĐ_Cẩm là chưa đủ căn cứ. Vì vậy, Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị hủy cả bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm nêu trên là có căn cứ chấp nhận.


318/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 784
  • 17

Tranh chấp thừa kế

19-08-2014

Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 132/2011/BSPT ngày 18/7/2011 của Tòa án nhân dân thành phố HN và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 09/2010/DSST ngày 26/8/2010 của Tòa án nhân dân huyện TL (nay là Tòa án nhân dân quận Nam TL), thành phố HN về vụ án “Tranh chấp chia thừa kế” giữa nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Đình Ba, bà NĐ_Nguyễn Thị Thắm (tức NĐ_Trúc), anh NĐ_Nguyễn Minh Lợi, bà NĐ_Nguyễn Thị Lam với bị đơn là ông BĐ_Nguyễn Đình Khanh, bà BĐ_Nguyễn Thị Hân và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.


36/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 750
  • 9

Tranh chấp thừa kế

18-08-2014

Cụ NĐ_Ngô Thị Na (sinh năm 1914), cụ Ngô Thị Huyến (sinh năm 1922) và cụ LQ_Ngô Thị Hà (sinh năm 1935) là ba chị em ruột. Cụ Huyến và chồng là cụ Huỳnh Văn Liễu là chủ sở hữu căn nhà 115 BVĐ (số cũ là nhà 113, 114, 115), phường 9, quận X, thành phố HCM. Vợ chồng cụ Huyến, cụ Liễu có một người con là bà BĐ_Huỳnh Thị Bích Lợi. Ngày 28/8/2002, cụ Huyến lập “Tờ di chúc” giao quyền sở hữu căn số 115 BVĐ cho vợ chồng cụ NĐ_Na. Ngày 25/01/2003, cụ Huyến chết, 2006 cụ Liễu chết. Khi cụ NĐ_Na liên lạc để làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế thì bà BĐ_Lợi ngăn chặn. Hiện tại căn nhà nói trên do anh LQ_Phạm Quang Sang (người được bà BĐ_Lợi giao quản lý) chiếm ở. Vì vậy, cụ NĐ_Na khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận di chúc cụ Huyến lập ngày 28/8/2002