cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

276/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1373
  • 19

Tranh chấp thừa kế

21-07-2014

Trong quá trình giải quyết vụ án, chính bị đơn đã thừa nhận diện tích đất có nguồn gốc là của cụ Tranh được thừa hưởng từ gia tộc. Cụ Phạm Văn Hai là em ruột cụ Phạm Văn Bê cũng xác định toàn bộ diện tích đất tranh chấp là của cụ Bê, cụ Tranh. Do đó việc Tòa án cấp sơ thẩm chỉ chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông NĐ_Mạnh, chia thừa kế một phần diện tích đất tranh chấp, xác định thửa 897 có nguồn gốc từ thửa 1347, 1349 của cụ Tranh đăng ký kê khai để chia thừa kế. Còn Tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà BĐ_Phú và cho rằng thời điểm năm 1975 cụ Tranh đã già (65 tuổi) không thể đứng ra cất nhà, khai phá đất, từ đó bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không đúng. Vì vậy, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Tòa dân sự xét xử giám đốc thẩm, hủy cả bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại là cần thiết nên chấp nhận.


275/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 210
  • 7

Tranh chấp thừa kế

21-07-2014

Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chia thừa kế theo pháp luật đối với tài sản của cụ Triệu, chia tài sản chung đối với tài sản của cụ My là đúng. Tuy nhiên, về cách chia hiện vật là chưa phù hợp, vì theo Quyết định số 58/2009/QĐ - UB ngày 30/3/2009 của Ủy ban nhân dân thành phố HN quy định về hạn mức đất được tách thửa cho hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn thành phố HN phải có diện tích tối thiểu không nhỏ hơn 30m2, có chiều rộng mặt tiền và chiều sâu so với chỉ giới xây dựng từ 3m trở lên. Lẽ ra, trong trường hợp này Tòa án phải giải thích để các đương sự thương lượng việc phân chia đất, nếu ai cũng có nhu cầu sử dụng thì vẫn phải chia và chỉ có quyền đề nghị cấp chung tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nếu các đương sự không đồng ý thì phải chia đất theo đúng quy định của Ủy ban nhân dân thành phố HN. Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa làm rõ những nội dung trên nhưng vẫn chia đất cho các đương sự, có người không đủ điều kiện để cấp riêng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chưa phù hợp. Thực tế phần đất giao cho ông BĐ_Hà, ông đã chuyển nhượng cho bà Phạm Thị Hằng 24m2 từ ngày 25/5/2008 (giấy tờ viết tay), bà Hằng đã đóng thuế nhà đất từ năm 2009, hiện bà Hằng đang quản lý và sử dụng phần nhà đất này, nên Thi hành án không thể giao phần đất này cho ông BĐ_Tấn theo bản án được. Về tố tụng: Tòa án các cấp không đưa bà Hằng tham gia tố tụng để giải quyết triệt để vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng


31/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1144
  • 55

Tranh chấp thừa kế

10-07-2014

trong quá trình giải quyết vụ, án ông BĐ_Hào có yêu cầu được chia hiện vật là căn nhà số 60/2 đường Độc Lập để làm nơi thờ cúng, nhưng Tòa án phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu của ông BĐ_Hào; giao cho Cơ quan thi hành án bán đấu giá 02 căn nhà để chia giá trị cho các thừa kế cũng là không đúng. Tuy nhiên, tại Công văn số 4743/CTHA ngày 21/02/2014, Cục Thi hành án dân sự thành phố HCM xác định Cơ quan thi hành án đã tổ chức bán đấu giá hai căn nhà gắn liền với quyền sử dụng đất theo quyết định tại bản án phúc thẩm. Như vậy, nhà đất có tranh chấp đã được chuyển giao hợp pháp cho người thứ 3 ngay tình. Vì vậy, không còn là di sản thừa kế để chia, nên khi giải quyết lại phải chia bằng giá trị cho những người thừa kế số tiền tương ứng với kỷ phần mà từng đương sự được hưởng. Bởi các lẽ trên, căn cứ Khoản 3 Điều 291, Khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12 ngày 29/3/2011 của Quốc hội).


254/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 365
  • 5

Tranh chấp thừa kế

16-06-2014

Bà BĐ_Đan không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà NĐ_Sa, bà NĐ_Hằng, bà NĐ_Son, vì cho rằng bà là người trực tiếp quản lý, sử dụng đất từ năm 1975 đến nay, quá trình quản lý bà đã thực hiện đầy đủ các thủ tục đăng ký đất và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Đối với căn nhà của cụ Xấu và cụ Khoan hiện ông BĐ_Sinh đang quản lý sử dụng, bà BĐ_Đan thống nhất giao cho ông BĐ_Sinh được quyền nhận hưởng và quản lý sử dụng


28/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 232
  • 5

Tranh chấp thừa kế

13-06-2014

Đối với diện tích các thửa 1914, 1915 (do bà LQ_Liên đứng tên) và thửa 1887 (đứng tên ông Thân) thuộc ấp Bình Lương, xã ĐK, huyện CT tuy chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng các đương sự đều xác nhận là của cụ Sáu, phần đất này đã đứng tên bà LQ_Liên, ông Thân trong sổ đăng ký đất nên theo Khoản 1, Khoản 2 Điều 50 và Điều 136 Luật đất đai thì thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Toà án. Đối với phần đất 1.830m2 (đo thực tế là 2.732,4m2) của các thửa đất số 21, 22, 28, 29 thuộc ấp Long Mỹ, xã LTB, huyện HT cần phải thu thập chứng cứ để xác định đương sự có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 50 Luật đất đai không để xác định có thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án không. Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa làm rõ những tình tiết nêu trên để giải quyết trong cùng vụ án là không đúng.