cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

85/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 294
  • 9

Đòi lại tài sản

10-07-2013

Từ năm 2002 đến năm 2005 bà NĐ_Vũ và ông NĐ_Long nhiều lần gửi tiền về nhờ bà LQ_Dương Chiêu Ngọc và anh BĐ_Lê Nghĩa Tiến (là con của bà LQ_Ngọc) xây dựng một số công trình để thờ cúng. Tổng số tiền đã gửi là 68.835 đô la Úc (quy đổi thành 984.923.000 VNĐ) và cho anh BĐ_Tiến vay 150 triệu đồng tiền Việt Nam. Anh BĐ_Tiến và bà LQ_Ngọc đã xây dựng xong công trình, công trình được định giá là 508.885.000 đồng. Nay nguyên đơn yêu cầu anh BĐ_Tiến trả lại số tiền đã vay và số tiền xây dựng khu nhà thờ còn thừa


81/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 214
  • 10

Đòi lại tài sản

28-06-2013

Sau năm 1975, ông Ngụy Tình vượt biên. Căn nhà 44 BĐ do Nhà nước quản lý. Ông làm đơn xin lại căn nhà. Ngày 24/5/1983, Ủy ban nhân dân thị xã CĐ ban hành Quyết định số 97/QĐ-UB giao lại căn nhà 44 BĐ cho ông làm chủ quyền và ông đã đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ này. Tháng 4/1985, cụ Vinh ốm nặng, ông phải khóa cửa bỏ trống nhà 44 BĐ và chuyển về ở tại nhà số 93 NĐC để chăm sóc cụ Vinh thì vợ chồng ông BĐ_Phạm Hữu Cần, bà LQ_Lưu Ngọc Di tự ý phá khóa vào chiếm căn nhà 44 BĐ để ở. Nay ông yêu cầu Tòa án xác định quyền sở hữu căn nhà 44 BĐ của ông, yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Cần, bà LQ_Di trả lại nhà cho ông.


62/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 3109
  • 161

Đòi lại tài sản

12-06-2013

Tại Biên bản giao dịch mua bán cổ phiếu ngày 30/7/2004 có nội dung ông NĐ_Tiền còn nợ BĐ_Công ty phần vốn góp là 149 triệu đồng. BĐ_Công ty có đơn phản tố yêu cầu ông NĐ_Tiền phải thanh toán phần yốn góp chưa nộp là 149 triệu đồng. Do đó, khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cần làm rõ nếu giữa ông NĐ_Tiền và BĐ_Công ty thỏa thuận đồng ý cho ông NĐ_Tiền rút vốn (trả bằng tiền hoặc bằng nền đất), các bên không còn tiếp tục hợp tác kinh doanh và không còn tranh chấp gì khác thì đó là tranh chấp về dân sự; còn nếu trong trường hợp việc chuyển nhượng vốn giữa ông NĐ_Tiền với BĐ_Công ty chưa hoàn thành, các bên co tranh chấp về giá trị chuyển nhượng, tranh chấp về phần vốn góp thì phải xác định đây là tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh thương mại.


61/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 393
  • 12

Đòi lại tài sản

11-06-2013

Trước năm 2002, ông và vợ là bà LQ_Nguyễn Thị Toàn định cư tại Hoa Kỳ. Do có nhu cầu trở về Việt Nam sinh sống và kinh doanh nên vào năm 2002 vợ chồng ông có gửi số tiến 44.400 USD về cho vợ chồng bà BĐ_Nguyễn Thị Tiến, ông LQ_Nguyễn Văn Ninh nhận chuyển đất và xây nhà ở, để sau này vợ chồng ông về định cư tại Việt Nam. Các lần gửi tiền đều có giấy nhận tiền. Thực tế, số tiền vợ chồng bà BĐ_Tiến, ông LQ_Ninh nhận được của vợ chồng ông đã nhận chuyển nhượng diện tích 178,2m2 đất, tại thửa số 1228 (nay là thửa số 4121), tờ bản đồ số 05, ấp TT, xã TA, huyện BM, tỉnh VL và xây dựng căn nhà diện tích 58,7m2. Ông yêu cầu được sở hữu toàn bộ nhà và đất nêu trên, ông đồng ý trả cho bà LQ_Nguyễn Thị Tiến một nửa của số tiền 44.400 USD và 18.675.000đ.


26/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1235
  • 34

Đòi lại tài sản

12-06-2014

Năm 2007, mẹ của anh là bà Thời chết (tại Mỹ). Các em của anh sống ở nước ngoài là anh LQ_Lý Hồng Vinh, anh LQ_Lý Hồng Phú, anh LQ_Lý Hồng Lâm và chị LQ_Lý Hồng Thư đồng loạt phản đối Biên bản họp gia tộc năm 2001 vì cho rằng ngôi nhà số 15 theo Chúc ngôn của ông bà nội là để làm nhà thờ, nhưng mẹ của anh là bà Thời lại cắt một phần chia cho gia đình bà Xò là không đúng. Do đó, anh khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc anh BĐ_Thông, anh BĐ_Thái, chị BĐ_Lan trả lại toàn bộ nhà, đất tại số 15 TBT cho gia đình anh theo Chúc ngôn năm 1969 của ông bà nội là cụ Đức và cụ Chà.