cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

1324/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1317
  • 35

Đòi lại tài sản

20-10-2015
TAND cấp huyện

Ngày 12/01/2007, bà NĐ_Phạm Thị Giáng đã đưa cho ông BĐ_Nguyễn Đình Minh Hòe số tiền 30.000 USD (ba mươi ngàn đô la Mỹ) để hùn mua đất ở Bình Tân, việc giao dịch hùn mua đất giữa bà NĐ_Giáng và ông BĐ_Hòe không thể hiện bằng văn bản, chỉ thỏa thuận miệng vì tin tưởng nhau, số tiền này ông BĐ_Hòe nhận vào ngày 12/01/2007. Nhưng đến nay bà NĐ_Giáng vẫn không nhận được lô đất nào. Nay, bà NĐ_Giáng yêu cầu ông BĐ_Hòe hoàn lại cho bà NĐ_Giáng 30.000 USD (ba mươi ngàn đô la Mỹ) tương đương với số tiền là 630.000.000 đồng (sáu trăm ba mươi triệu) ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.


357/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 200
  • 13

Đòi lại tài sản

18-08-2015
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện ngày 09/3/2012, trong các bản tự khai cũng như tại các phiên hòa giải và lời trình bày tại phiên tòa, nguyên đơn - NĐ_Công ty cổ phần Khang Khang, đại diện theo ủy quyền là ông Hồ Đức Linh trình bày: Năm 2006, bà LQ_Ngô Thị Bích Toán cùng các cổ đông khác thành lập NĐ_Công ty cổ phần Khang Khang (sau đây gọi là công ty). Tháng 9/2007 các cổ đông khác rút vốn khỏi công ty chỉ còn một mình bà LQ_Toán bỏ vốn duy trì hoạt động của công ty, tất cả các khoản tiền của công ty đều do bà LQ_Toán đóng góp.


107/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 833
  • 13

Đòi lại tài sản

31-08-2009
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn, ông NĐ_Nguyễn John xác định yêu cầu khởi kiện như sau: Ông là người gốc Việt có quốc tịch Hoa kỳ về Việt Nam sinh sống từ năm 2000. Từ khi về Việt Nam ông có quen biết với bà BĐ_Phạm Thị Kim Phượng và đã đưa cho bà BĐ_Phượng giữ một số tài sản, gồm: 275 lượng vàng SJC và 24.500USD. Số tài sản trên được đưa nhiều lần và không làm giấy tờ biên nhận. Mục đích ông đưa tiền, vàng là để bà BĐ_Phượng mua đất giùm ông, do ông là Việt Kiêu nên không được phép đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thực tế, bà BĐ_Phượng không mua đất nên hai bên có thỏa thuận như sau: bà BĐ_Phượng sẽ trả số tiền, vàng nêu trên cho ông vào ngày 15/8/2002. Đúng hẹn, bà BĐ_Phượng không thực hiện thỏa thuận. Khoảng tháng 10/2002, bà BĐ_Phượng có trả cho ông 31 lượng vàng SJC và 24.500USD, hai bên không làm giấy tờ biên nhận.


08/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1320
  • 38

Đòi lại tài sản

24-01-2013

Theo đơn khởi kiện ngày 08/7/2011 và trong quá trình tố tụng, bà NĐ_Phạm Thị Hương và người đại diện của bà NĐ_Hương trình bày: Cha chồng của bà NĐ_Hương là ông Nguyễn Kỳ Huệ có tạo dựng được căn nhà bê tông cốt thép diện tích xây dựng là 148,8m2 và phần diện lích 921,4m2 tọa lạc tại số 3/58 Quốc lộ 1A thị trấn CL, huyện CL, tỉnh TG và một số vật dụng trong nhà từ trước năm 1975. Đến năm 1991, được Sở xây dựng tỉnh TG cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và đất ở. Đến năm 1999, ông Huệ chết để lại di chúc định đoạt toàn bộ phần tài sản cho ông Nguyễn Kỳ Hà (con ruột của ông Huệ), là chồng của bà NĐ_Hương trong đó căn nhà và phần đất nói trên, ông Hà chưa sang tên chuyển quyền thì đến năm 2008 ông Hà chết để lại di chúc, tháng 03/2011 bà NĐ_Hương đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và đất.


633/2013/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 256
  • 22

Đòi lại tài sản

31-12-2013
TAND cấp huyện

Vợ chồng bà BĐ_Nguyễn Hồng Hải và ông BĐ_Lý Thái Tuấn có mượn tôi số tiền 580.000.000đ (năm trăm tám mươi triệu đồng) theo giấy mượn nợ ngày 24/9/2007. Vợ chồng ông BĐ_Tuấn và bà BĐ_Hải đã trả cho tôi được 215.000.000đ. Số tiền còn lại là 365.000.000đ hẹn đến ngày 20/10/2007 thì trả hết nhưng đến nay ông BĐ_Tuấn và bà BĐ_Hải vẫn chưa trả cho bà NĐ_Thuận. Nay bà NĐ_Phan Mỹ Thuận yêu cầu ông BĐ_Tuấn và bà BĐ_Hải trả số tiền gốc còn thiếu là 365.000.000đ, trả một lần ngay sau khi quyết định của Tòa án có hiệu lực. Ngoài ra bà không yêu cầu tính lãi.