cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

27/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 316
  • 12

Ly hôn

16-01-2009
Tòa phúc thẩm TANDTC

Chị Tuyến, anh Hoan kết hôn năm 1992 và có một con chung là cháu Nguyễn Tiến Thành sinh ngày 08/6/1994, do mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, nên ngày 20/8/2005 chị Tuyến có đơn xin ly hôn. Chị Tuyến, anh Hoan đồng ý ly hôn và giao con chung cho chị Tuyến nuôi dưỡng. Về tài sản: Chị Tuyến yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng là nhà mái bằng 35,2m2 trên 38,7m2 đất; chia đồ dùng sinh hoạt; chia 120.000.000 đồng là tiền anh Hoan thu nhập khi đi lao động tại Malaixia. Về nợ chung: Vợ chồng có nghĩa vụ trả nợ bà Mộc 1.000USD và 136USD lãi, nợ bà Sinh 6.200.000 đồng, nợ bà Lạc 20.000.000 đồng, nợ anh Tuyên 8.000.000 đồng.


559/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 175
  • 10

Ly hôn

18-11-2009

Tại đơn xin ly hôn đề ngày 10/12/2004 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Lã Văn Quảng trình bày: Anh và chị Lê Thị Việt (tức Hà) kết hôn tự nguyện ngày 10/5/1986 tại Đại sứ quán Việt Nam ở Bungari. Quá trình chung sống sinh được 2 con chung là các cháu Lã Quang Tùng sinh ngày 15/6/1988, Lã Quang Lâm sinh ngày 09/3/1992; về tài sản chung có đồ dùng sinh hoạt và một số tài sản khác; về nhà ở gồm có căn hộ số 7, số 8 A3 Yên Bái, phường phố Huế, HN (do vợ chồng mua lại của ông Phạm Mạnh Hùng và bà Vũ Thị Kim Xuyến) và 2 căn hộ này vẫn thuộc sở hữu nhà nước do xí nghiệp quản lý nhà quận HBT quản lý. Hiện 2 căn hộ trên đã được vợ chồng anh cải tạo, sửa chữa cùng với căn hộ số 4 A3 của bà Nguyện Thị Thành (tức Thường- mẹ của anh) và cơi nới, làm thêm tầng 3 thành căn hộ khép kín, bịt cầu thang không đi chung cầu thang tập thể mà làm cầu thang đi riêng trong căn hộ khép kín này. Ngoài ra, vợ chồng anh còn một căn hộ 304 A10 Đầm Trấu, phường Bạch Đằng, HN do vợ anh mua của ông Đàm Quốc Khánh, nhưng đứng tên anh Nghiêm Xuân Thắng (là cháu ruột của vợ anh) với giá 420.000.000 đồng, vì anh ghi âm được cuộc nói chuyện giữa vợ anh với anh Thắng nên anh xác định căn hộ này là tài sản chung của vợ chồng; về cửa hàng D3 tập thể Nguyễn Công Trứ, năm 1990 bà Thành thuê 2,4m2 với Ủy ban nhân dân phường phố Huế để vợ chồng anh đang kinh doanh, sau đó vợ chồng anh mua thêm của 3 người khác nên diện tích cửa hàng hiện nay là 18m2.


557/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 193
  • 6

Ly hôn

28-10-2009

Theo đơn xin ly hôn ngày 15/10/2007 và trong quá trình giải quyết vụ án, anh Đinh Công Tuấn trình bày: Anh và chị Đỗ Thị Mộng Diễm tự nguyện đi đến hôn nhân vào năm 2001, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Long Tuyền, quận BT, thành phố CT. Anh chị có 02 con chung là cháu Đinh Tấn Đạt, sinh ngày: 05/02/2001 và cháu Đinh Thị Thu Trúc, sinh ngày: 04/09/2005. Nhưng đến tháng 12/2005 thì anh và chị Diễm phát sinh mâu thuẫn; tháng 12/2007 anh và chị Diễm sông ly thân cho đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn là do không tin tưởng nhau trong đời sống vợ chồng, chị Diễm còn đối xử không tốt với cha mẹ chồng, thường xuyên xúc phạm cha mẹ chồng, anh đã nhiều lần góp ý, khuyên chị Diễm nên sửa đổi nhưng không có kết quả. Chính vì thế anh yêu cầu được ly hôn với chị Diễm.


388/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1806
  • 34

Ly hôn

20-08-2009

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 31/10/2006 và các lời khai trong quá trình tố tụng, ông Charles Trần Hoàng khai như sau: Năm 2000 ông Hoàng từ Mỹ về Việt Nam có quen biết bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết và chung sống với nhau như vợ chồng, không đăng ký kết hôn, cuộc sống chung không hạnh phúc do nguyên nhân chênh lệch quá nhiều về tuổi tác, trình độ nhận thức, quan điểm, tính tình không hoà hợp; khi bà Tuyết mang thai đòi phá thai, ông Hoàng không muốn mà muốn bà Tuyết sinh con; bà Tuyết không muốn cùng ông xây dựng gia đình hạnh phúc, bà Tuyết lợi dụng việc đứng tên tài sản giúp ông nên bà Tuyết đã tự ý vay nợ làm tổn thất quá nhiều tài chính buộc ông phải gánh trả. Sự việc diễn ra ông lựa lời góp ý động viên nhưng bà Tuyết không sửa được. Năm 2004 vợ chồng tự sống ly thân. Nay xét thấy mục đích hôn nhân không đạt được nên ông xin được ly hôn.


21/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 813
  • 13

Ly hôn

31-07-2009

Theo đơn khởi kiện ngày 01/10/2004 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là ông Huỳnh Thế Vinh trình bày: ông là Việt Kiều từ Mỹ về nước và có chung sống như vợ chồng với Nguyễn Thị Trang từ năm (1993) nhưng không đăng ký kết hôn; quá trình chung sống, ông và bà Trang có 03 người con chung là cháu Nguyễn Huỳnh Gia Bảo sinh ngày: 24/4/1996, cháu Nguyễn Huỳnh Gia Phúc và cháu Nguyễn Huỳnh Gia Lộc song sinh ngày: 13/3/1997. Do mâu thuẫn trầm trọng trong cuộc sống, nên ông Vinh đề nghị Tòa án giải quyết về quan hệ hôn nhân, về tài sản chung và nợ chung giữa ông và bà Trang, về con chung ông Vinh đồng ý để bà Trang nuôi dưỡng, ông sẽ cấp dưỡng nuôi con.