cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

10/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2381
  • 98

Tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề

12-03-2010

Gia đình ông mua mảnh đất liền kề với nhà anh BĐ_Hồ Mạnh Tài trước năm 1961, nhưng đến năm 1961 thì cả gia đình mới chuyển đến làm nhà trên thửa đất này. Khi ông NĐ_Cần chuyển đến đã thấy gia đình cụ Thức (ông nội anh BĐ_Tài) xây công trình phụ lấn sang đất của gia đình ông khoảng 30 cm.(ở khoảng giữa của thửa đất tính theo chiều sâu). Ngay thời điểm đó, ông Tuyển đã gặp gỡ và nói với cụ Thức về diện tích đất mà cụ Thức lấn sang đất nhà ông. Cụ Thức hứa khi nào gia đình ông Tuyển có nhu cầu sử dụng thì sẽ dỡ bỏ công trình để trả lại đất vì việc xây dựng đã xong. Từ đó đến nay, khoảng đất đó, gia đình ông vẫn dùng làm khoảng sân phía sau nhà ở, nên vẫn để nguyên như trước. Tại Bản đồ 299 hoàn thiện năm 1987 và Bản đồ đo đạc năm 1993 để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đều xác đính ranh giới đất giữa hai gia đình là đường thẳng, có sự chứng kiến và công nhận của hai gia đình.


09/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1790
  • 29

Tranh chấp thừa kế

10-03-2010

Khi cụ Trương Công Nghế và cụ Đỗ Thị Hiển còn sống đã cho bố anh là ông Trương Công Chế nhà cấp 4 trên diện tích 94m2. Năm 1993 ông Chế chết, cụ Nghế, cụ Hiển nói với mọi người là cho anh nhà đất này. Sau khi cụ Nghế, cụ Hiển mất, anh chưa kịp làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất nên ngày 26/11/2001 các thừa kế của cụ Nghế, cụ Hiển là bà BĐ_Trương Thị My, ông Trương Quang Tiến, bà BĐ_Trương Thị Hà, bà Trương Thị Hòa đã họp để phân chia đất thổ cư do cụ Nghế, cụ Hiển đê lại theo nguyện vọng của các cụ là nhà đất trên diện tích 94m2 thì giao cho anh NĐ_Trương Quang Khang, nhà đất trên diện tích 147,6m2 thì giao cho ông Trương Quang Tiến.


09/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 468
  • 8

Tranh chấp thừa kế

10-03-2010

Ông Nam và bà Kim Anh tạo lập được căn nhà số 215A NTL, quận BT, thành phố HCM. Bà Kim Anh chết ngày 01/3/1993 không để lại di chúc. Sau khi bà Kim Anh chết, ông Nam tạo lập thêm được căn nhà số 179/2A NTL, 01 xe ô tô 4 chỗ hiệu Mercedes và một số đồ dùng sinh hoạt. Ngày 10/10/1995, ông Nam lập di chúc chia thừa kế cho 6 người con chung của ông với bà Kim Anh 2/3 giá trị căn nhà 215A NTL, còn lại 1/3 giá trị nhà 215A NTL giao cho chị LQ_Vũ Thị Kim Lài quản lý, sử dụng, dùng một phần để thờ cúng tổ tiên, một phần để chia cho 3 con riêng của ông Nam với bà LQ_Vũ Thị Kim Liễu là anh LQ_Hào, chị LQ_Phụng và chị LQ_Hằng (khi anh LQ_Hào, chị LQ_Phụng, chị LQ_Hằng đến tuổi trưởng thành).


07/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 401
  • 39

Tranh chấp quyền sử dụng đất

10-03-2010

Ngày 7/8/1984 vợ chồng cụ BĐ_Trần Nhứt Nghi, cụ Nguyễn Thị Hai chuyển nhượng cho cha của bà là cụ LQ_Nguyễn Ngọc Châu 2 công đất (2.600 m2) giá 100 giạ lúa nhưng để cho anh trai của bà là ông LQ_Nguyễn Ngọc Lâm đứng tên đồng thời xuất trình tờ “Giấy tay sang đất ruộng” lập ngày 7/8/1984. Sau khi sang nhượng đất, gia đình bà quản lý sử dụng, đến năm 1989 thì cụ BĐ_Nghi chiếm lại đất, gia đình bà có khiếu nại đến Uỷ ban nhân dân huyện KS. Uỷ ban nhân dân huyện KS ban hành Quyết định số 60/QĐ.UBH.89 ngày 5-9-1989 thu hồi 2 công đất của gia đình cụ BĐ_Nghi để giao cho gia đình bà nhưng cụ BĐ_Nghi không chấp hành. Đến ngày 4-4-1995 Uỷ ban nhân dân huyện KS cấp giấy chứng nhận quyền sử dựng đất cho hộ gia đình bà đứng tên diện tích 2.600 m2.


05/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 528
  • 10

Tranh chấp thừa kế

03-03-2010

Năm 1949 cụ Đương chết không để lại di chúc. Năm 1950 cụ Trạng kết hôn với cụ Nguyễn Thị Mến có hai người con chung là ông BĐ_Nguyễn Đình Hạ và ông LQ_Nguyễn Minh. Năm 1982 cụ Trạng- chết, năm 1983 cụ Mến chết đều không để lại di chúc. Sau khi cụ Mến chết, tài sản để lại là căn nhà ngói 3 gian trên diện tích đất 1.200m2 tại thôn câu Lâu Đông, xã DP, huyện DX, tỉnh QN, hiện do gia đình ông BĐ_Nguyễn Đình Hạ quản lý, sử dụng. Năm 1992, anh NĐ_LQ_Nguyễn Quang Phong, bà LQ_Nguyễn Thị Hoa, bà LQ_Nguyễn Thị Mai, ông LQ_Nguyễn Nghị và bà LQ_Nguyễn Thị Lài (là các con, cháu của cụ Trạng, cụ Đương) khởi kiện yêu cầu chia thừa kế tài sản của cụ Trạng, cụ Đương. Bị đơn là ông BĐ_Nguyễn Đình Hạ đồng ý chia thừa kế, nhưng yêu cầu xem xét đến công sức của vợ chồng ông trong việc tu bổ đất, sửa chữa nhà.